NGỌC HÂN CÔNG CHÚA (玉忻公主) Bài 3
Hồ Quang
27.12.2022 16:30:20
Hình Minh Họa về Ngoc Hân Công Chúa
Việt Nam Sử Học xin được giới thiệu cùng độc giả bài viết
về Ngọc Hân Công Chúa. Đây là bài viết mà chúng tôi thấy tác giả nghiên cứu
rất công phu không chỉ về việc sưu tầm sách vở mà còn mở rồng tầm nhìn ra khắp
nhằm giúp người đọc thấy được sự so sánh nhiều nhân vật liên quan để có thể kết
luận rõ ràng giữa đúng và sai... Tiếp theo Bài 2 NGỌC HÂN CÔNG CHÚA (玉忻公主) BẮC CUNG HOÀNG HẬU (北宮皇后) Hồ Quang
... Là người vừa giỏi quốc âm vừa thông Hán văn, lúc vua
Quang Trung còn tại thế bà Ngọc Hân hay giảng giải kinh điển cho vua nghe. Theo
bài dịch từ Hán Văn ra quốc văn của Tạ Quang Phát đăng trên Nam Phong Tạp Chí (số
103, năm 1926) có bài biểu mừng của bà Ngọc Hân dâng lên vua Quang Trung trong
dịp lễ “Tứ Tuần Vạn Thọ Khánh Tiết” như sau:
- "Tư ngộ thiên thọ
khánh tiết, (Nay gặp
khánh tiết mừng tuổi thọ của Hoàng Đế,)
- thanh thiên ứng luật, (khúc nhạc Thanh thương ứng luật hợp
tiết,)
- hôn chử tại thì. (cồn hoa đang độ.)
- Ngọc thụ phiêu hương, (Cây ngọc đưa hương,)
- bích đào hiến trường
sinh chi quả; (cây
bích đào dâng quả trường sinh)
- ngân thiềm thổ diễm, (trăng bạc nhả ánh trăng trong,)
- băng hồ khai phục đán chi
hoa. (hồ băng lại nở
hoa buổi sáng.)
- Tử ái nùng nhi khuê các
đằng phương, (Mây mù
sắc tía nồng đượm khuê phòng hương nức;)
- thụy khí sảng nhi vu huy
tăng sắc. (khí lành
sáng tỏ mà áo xiêm thêm màu.)
- Cẩn phụng biểu xưng hạ
giả. (Kính cẩn dâng
bài biểu chúc mừng.)
- Phục dĩ thụy khí trinh
tường, (Cúi lấy khí
lành trình điềm tốt,)
- thông uất phụng lân chi
thái; (tưng bừng màu
sắc con phụng con lân;)
- quang thiên xiển lãng, (đầy khắp thiên hạ,)
- chiếu hồi Dực chẩn chi
hư, (chiếu về cõi hư
không sao Dực sao Chẩn,)
- Quế điện truyền hương; (Ðiện quế truyền hương;)
- tiêu đình dật khánh. (sân tiêu tràn điều mừng.)
- Khâm duy Hoàng đế Bệ hạ, (Kính nghĩ Hoàng đế Bệ hạ,)
- tài cao thiên cổ, (tài cao thiên cổ,)
- đức phối lưỡng nghi. (đức hợp với Trời và Ðất.)
- Cung thiên phi chấn vũ
công. (Cung kính thi
hành sự trừng phạt của Trời lớn lao chấn động vũ
- công,)
- Tây thổ bí hưng vương
chi sự nghiệp; (đất
Tây Sơn đẹp đẽ hưng sự nghiệp đế vương;)
- thì hạ tứ trần ý đức, (trần bày đức đẹp vào bản nhạc ca vĩ đại,)
- đông giao hoàn định quốc
chi qui mô. (ở cõi
giao phía đông đã định xong qui mô của nước nhà.)
- Xích nhật minh nhi ngung
nhược hữu phu; (Mặt
trời đỏ rạng mà nghiêm đáng tin (quẻ quan);
- thọ tinh diệu nhi chiêm
y cọng ngưỡng. (sao
thọ tinh chiếu sáng mà thiên hạ đều cùng ngưỡng
- lên trông mong nương tựa (thiên Tiểu biền, phần Tiểu nhã trong
Kinh Thi).
- Thần Xu điện nhiễu quang
phù Vạn Thọ chi bôi; (Sao
xu của Bắc đẩu điện vây, ánh sáng nổi
- lên chen mừng
Vạn thọ;)
- xương hạp vân khai dinh
triệt thiên thu chi kính. (cửa Trời mây mở, sắc trong thấu triệt mặt kính
- ngàn thu.)
- Tứ tự thường điều ngọc
chúc, (bốn mùa thường
điều hoà khiến cái đức của vua đẹp như ngọc
- sáng như đuốc;)
- ức niên vĩnh điện kim
âu. (trong ức năm mãi
vững chiếc lọ vàng.)
- Thần đức thiểm Quan thư,
nhân tàm Cưu mộc. (Hạ
thần đức thẹn với thơ Quan Thư, nhân ngượng với thơ Cưu mộc.)
- Trung khổn cận bồi chẩn
tọa, (Trong nội thất
theo hầu kề cùng ngồi mặc đồ lộng lẫy,)
- bái chiêm bát thiên xuân
sơ kỷ chi tiên trù;
(vái mong tính theo tuổi thiên niên kỷ khởi đầu của tuổi Bệ hạ một mùa xuân tám
ngàn năm;)
- nội đình mật nhĩ thiều
âm, (chốn nội đình kề
sát nghe nhạc thiều,)
- cẩn chúc thiên vạn tuế
vô cương chi đỉnh tộ."
(ân cần chúc phước của quốc gia được ngàn muôn năm vô hạn”.)
- Năm 1792, vua Quang Trung băng hà, bà khóc thật nhiều, cõi
lòng tan nát, bà chỉ muốn chết theo nhà vua cho trọn niềm chung thủy. Nhưng,
giang sơn của chồng tạo dựng còn đó, con thơ bé bỏng còn đó, làm sao nỡ bỏ cho
đành... Thôi thì phải sống, sống để tiếp tục giữ gìn những gì chồng bà từng xông
pha nơi làn tên mũi đạn mới có thể dựng nên… Tất cả chúng như dồn lên, đầy ắp đến
ngạt thở, để rồi bà phải bật lên thành tiếng than đầy ai oán. Qua bài “Tế vua
Quang Trung”, bà kể hết những sâu kín trong bà và công ơn của nhà vua đối với đất
nước, đối với triều đình và ngay đối với bà... Từ đó nỗi nhớ nhung cứ quanh quẩn,
cộng thêm vào sự cô đơn quạnh quẽ khiến lòng bà đầy nỗi bi ai, bà đã khóc thành
lời trong “Ai Tư Vãn”. Qua hai tiểu tác phẩm này, Ngọc Hân muốn gởi gấm lòng
mình đến mọi người sau khi nhà vua băng hà:
- - Bà cho rằng sự ra đi của vua Quang Trung không chỉ là sự
mất mát riêng của mình bà mà là sự mất mát to lớn chung cho mọi người khác nữa.
- - Bà cho rằng nhà vua không chỉ là người tài đức mà còn là
người rộng lượng và đầy lòng nhân ái.
- - Trước đấng phu quân của mình “toàn vẹn” như thế mà phải
từ biệt cõi đời quá sớm thì bà làm sao không thể buồn thảm, nhớ thương, kính trọng…
- - Bà đã trách móc, hờn dỗi cuộc đời sao quá ngắn ngủi, không
thể kéo dài thêm cho những bậc hiền đức tài năng như vị minh quân của bà:
- “…Mà nay lượng cả, ơn sâu, Móc mưa rưới khắp chín châu đượm
nhuần. Công dường ấy, mà nhân dường ấy, Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công? Rộng cho
chuộc được tuổi rồng, Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi (Ai Tư Vãn).
- Trong sách “Thi Văn Bình Phẩm” tác giả Ngô Tất Tố nhận
xét về bài “Văn Tế vua Quang Trung” của bà Ngọc Hân, như sau:
- “Cả bài ý nghĩa rõ ràng, lời lẽ chải chuốt, dùng điển tích
cũng đắc thể và xác đáng...”.
- “Văn Tế” dĩ nhiên phải được làm theo thể “Phú”, nên phải theo
đúng quy cách của nó (văn chương bác học), nghĩa là phải biết dùng nhiều điển cố,
Trong bài “phú” nầy tác giả Lê Ngọc Hân đã cố tìm ra những điển cố dễ hiểu để
người đọc nắm bắt được nội dung ngay. Do đó khi đọc “Ai Tư Vãn”, ai cũng thấy
chạnh lòng, man mác, đầy nỗi day dứt… Với giai điệu thật trầm buồn, đầy luyến
thương, “Ai Tư Vãn” đã gây nhiều xúc động cho mọi độc giả. Và cũng chính nhờ
bài “Ai Tư Vãn” mà tên tuổi “Ngọc Hân Công Chúa” đã được mọi người nhắc đến, nhất
là giới nghiên cứu văn học với lòng kính phục một bậc “nữ lưu”, chứ không đơn
thuần chỉ là sự tôn trọng bà là vị hoàng hậu của vua Quang Trung.
- Nhìn chung, các tác phẩm của bà (Ngọc Hân Công Chúa) đều là
những tiếng lòng não nuột của người thiếu phụ đang tuổi xuân thì, hưởng hạnh
phúc với người yêu chưa được bao lâu đã gặp trắc trở, âm dương cách biệt… Người
đọc cảm nhận điều bất hạnh nầy, nên thấy ngậm ngùi thay cho bà... Tiếng than
khóc của bà không chỉ là tiếng than khóc về chính mình mà còn than khóc thay
cho tất cả những người đồng điệu, những người dân đã và đang hưởng những mơ ước
mà trước đó họ chưa có thể có, và họ còn muốn được hưởng “cái đang có” đó nhiều
hơn nữa, hạnh phúc hơn nữa… nếu đấng minh quân của họ không bị đoản mệnh... Bà
biết những người thương tiếc vua Quang Trung như bà rồi đây sẽ tan nát cõi lòng,
sẽ cô quạnh, đơn độc trước một tương lại mờ mịt, đầy ghen ghét, hờn giận và đố
kỵ...
- Ðể bạn đọc có thể tìm hiểu, người viết xin trích một phần
trong số các tác phẩm mà “nữ lưu” Ngọc Hân để lại.
- Văn Tế vua Quang Trung (Ðăng trong Ðông Thanh tạp chí số 05
năm 1932):
- “Than rằng:
- 1. Chín từng ngọc sáng
bóng trung tinh, ngoài muôn dặm vừa cùng trông vẻ thụy; Một phút mây che vầng
Thái Bạch, trong sáu cung thoắt đã nhạt hơi hương.
- 2. Tơ đứt tất lòng ly biệt;
Châu sa giọt lệ cương thường.
- 3. Nhớ phen bến Nhị thuận
buồm, hội bái việt chín châu lừng lẫy; Vừa buổi cầu Ngân sẵn nhịp, đoàn ỷ la
đôi nước rỡ ràng.
- 4. Hôn cấu đã nên nghĩa
cả; Quan san bao quản dậm trường.
- 5. Nhờ lượng trên cũng
muốn tôn Chu, tình thân hiếu đã ngăn chia đôi nước; Song thế cả trót đà về Hán,
hội hỗn đồng chi cách trở một phương?
- 6. Lòng dẫu xót thấy cơn
cách chính; Thân lại nhờ gặp hội hưng vương.
- 7. Thành Xuân theo ngọn
long kỳ, đạo tề trị gần nghe tiếng ngọc; Cung hữu rạng mầu địch phất, tình ái
ân muôn đội nhà vàng.
- 8. Danh phận ấy cậy vun
trồng mọi vẻ; Nền nếp xưa nhờ che chở trăm đường.
- 9. Ơn sâu nhuần gọi cỏ
cây, chốn lăng tẩm chẳng phạm chồi du tử; Lộc nặng thơm tho hương khói, nơi miếu
đường nào khuyết lễ chưng thường.
- 10. Mọi nỗi, mọi nơi nhờ
trọn vẹn; Một đều, một được vẻ vang.
- 11. Phép hằng gìn hạc
thược, tước thoa, buồng quế rạng khuôn Nội Tắc; Ðiềm sớm ứng chung tư, Lân Chỉ,
phái Lam thêm diễn thiên hoàng.
- 12. Mảy chút chưa đền đức
cả; Gót đầu đều trọn ơn sang.
- 13. Ðền Vị Ương bóng đuốc
bừng bừng, lòng cần mẫn vừa khi dóng dả. Miền cực lạc xe mây vùn vụt, duyên hảo
cầu sao bỗng dở dang?
- Ôi!
- 14. Gió lạnh buồng đào,
rơi cầm nẩy sắt; Sương pha cung đỏ, hoen phấn mờ gương.
- 15. Tiệc vầy vui nhớ hãy
rành rành, nhịp ca múa bỗng khuây chừng Thần Ngự. Buổi chầu chực tưởng còn phảng
phất, chuông điểm hồi sao vắng chốn Cảnh Dương.
- 16. Vấn vít bấy, bảy năm
kết phát; Đau đớn thay trăm nỗi đoạn trường.
- 17. Hé nhà sương ngắm
quyển cung châm, tiếng chi phất hãy mơ màng trên gối. Nương hương nguyệt, ngẫm
lời đình chỉ, bóng thúy hoa còn phấp phới bên tường.
- 18. Hang núi cũng phàn
nàn đòi chốn; Cỏ hoa đều sùi sụt mấy hàng!
- 19. Liều trâm ngọc mong
theo chốn chân du, da tóc trăm thân nào có tiếc. Ôm cưỡng bảo luống ngập ngừng
di thể, sữa măng đôi chút lại thêm thương.
- Tiếc thay!
- 20. Ngày thoi thắm thoắt;
Bóng khích vội vàng.
- 21. Thuyền ngự tọa đã
ngang ghềnh Thái Thủy! Bóng long xa thẳng trỏ lối tiên hương.
- 22. Nẻo hoàng tuyền xa cách mấy trùng, ngao ngán thêm ngừng cơn biệt duệ.
Chén hoàng thủy kính dâng một lễ, xét soi xin thấu cõi minh dương”.
|