TRUNG TƯỚNG NGUYỄN HỮU CÓ (Phần 3)
HỒ QUÂN
22.05.2014 16:41:58
Tuổi về già của Ô.Bà Nguyễn Hữu Có
Lời
Giới Thiệu của Vietnamsuhoc.com: Xin giới thiệu cùng độc
giả: Trung Tướng Nguyễn Hữu Có là chính khách của Miền Nam trước 1975. Ông từng
là Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, giống như Đại Tướng Võ Nguyên
Giáp của Miền Bắc)... Tuy đã từng một thời oanh liệt, nhưng hậu vận không mấy
tốt như mong ước nên mặc dầu biết rằng "hoàn toàn thất bại", ông vẫn
cứ bám theo giúp sức Tổng Thống Dương Văn Minh ở giờ chót, để rồi sau dó cũng
vào "trại cải tạo" như đa số các sĩ quan trong QL/VNCH khi VC cưỡng
chiếm Miền Nam. Bài viết dưới đây sẽ nói về ông, cũng như nghe ông tự nói...
HỒI ỨC CỦA ÔNG NGUYỄN HỮU CÓ (do phóng viên Nguyễn Đức Hiển ghi lại, đăng trên
báo Pháp Luật Online) Báo
nầy có ghi lời nhận xét như sau: "Hồi ức dưới đây được ghi chép từ nhiều cuộc trò
chuyện giữa ông Nguyễn Hữu Có với phóng viên Đức Hiển, Báo Pháp Luật TP.HCM
trong quãng thời gian từ 2003 đến 2006. Có thể do tuổi tác và thời gian quá
lâu, một số chi tiết có thể có sai số. Tuy nhiên điều mà PLO muốn nói đến là
cái nhìn của một người trong cuộc, từng ở phía bên kia trong thời khắc cuối
cùng của cuộc chiến. Người viết chỉ theo nội dung câu chuyện phỏng
vấn của Nguyễn Đức Hiền, (NĐH: Nguyễn Đức Hiền, NHC: cựu Trung Tướng Nguyễn Hữu
Có), để sắp xếp lại. Theo như bài dười đây thì Trung Tướng Có kể lại chuyện 30
tháng Tư với phóng viên Đức Hiền có những chi tiết khác với việc nói chuyện với
"bạn tù" ngay trong nhà tù, nhưng bằng cách nào đi nữa thì chuyện đã
có xảy ra na ná như thế. Vì việc nầy nên tờ Pháp Luật đã ghi; "Có thể do tuổi tác và thời gian quá lâu, một
số chi tiết có thể có sai số..."
Vào chiều 28-4-2005, NĐH gọi cho ông NHC hỏi: - Chú đang ở đâu? Con chạy tới. Ông NHC hỏi: - Có chuyện gì?... NĐH nói: - Không chuyện gì, chỉ muốn uống trà nghe chú
review lại cảm xúc của ngày này ba mươi năm trước thôi. Ông NHC đồng ý và nói: - Ừ, chạy qua đi, chú đang sắp hành lý qua Mỹ thăm mấy
đứa nhỏ. NHC đợi tôi (NĐH) ở nhà riêng (đường Nguyễn
Đình Chính, Phú Nhuận, SG).
"Nhiều
lần trò chuyện với ông Nguyễn Hữu Có, tôi (NĐH) nhìn thấy ở ông (NHC) sự an
phận và buông trôi, không có vẻ gì của một chiến tướng, một Bộ Trưởng Quốc Phòng
của VNCH trong những năm chiến tranh căng thẳng cả... Rời
chính trường từ 1967, ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh, ông lại đeo lên vai
áo mình quân hàm Trung Tướng, trợ lý quân sự cho Tổng Thống Dương Văn Minh. Làm
Trung Tướng một ngày hôm đó đủ để chứng kiến cỗ máy chiến tranh và cả chế độ
sụp đổ rồi... Ông NHC
kể: "Gần cuối tháng 4-1975, thấy tình
hình không êm, Tổng Thống Thiệu từ chức, giao quyền lại cho Phó Tổng Thống Vũ
Văn Huyền (không phải
ông Huyền mà là ông Hương - người viết sửa lại), ông Huyền trao lại cho ông Hương (ông Hương trao lại cho Huyền lúc
đó là Chủ Tịch Thượng Viện lấy ý kiến là có nên trao quyền cho ông Minh
không... người viết sửa lại) rồi sau đó
là Đại Tướng Dương văn Minh. Tôi lúc bấy giờ không còn vai trò gì trong
quân đội. Từ chỗ là Tổng Trưởng Quốc Phòng, Thiệu cử tôi đi Đài Loan cám ơn chính
phủ nước này, rồi sau đó buộc tôi lưu vong ở Hồng Kong ba năm trời. Thời gian
đó, biết không thể quay lại chính trường, tôi đi học nghề ngân hàng. Hết thời
hạn lưu vong tôi về nước và được Nguyễn Tấn Đời mời làm cho Tín Nghĩa Ngân Hàng. Tín Nghĩa là một nhà băng lớn và
Nguyễn Tấn Đời có quan hệ với nhiều ông lớn, một trong số đó là ông Dương Văn
Minh. Sáng nào hai ông này cũng di đánh tennis với nhau, cả Sài Gòn ai cũng
biết. Ông Thiệu dĩ nhiên cũng biết và đặc biệt khó chịu về điều đó. Thế rồi tai
vạ ập đến. Thiệu nghe tay chân thân tín mách lại: ông Nguyễn Tấn Đời hứa với
ông Dương Văn Minh hễ Big Minh ra tranh cử tổng thống thì ông Đời sẽ hỗ trợ
mạnh mẽ về tài chính. Và ông Thiệu quyết định ra tay trước
để ngăn ngừa hậu họa. Nguyễn Tấn Đời nói với tôi: căng rồi,
ông Thiệu đã lệnh cho Ngân Hàng Nhà nước thanh tra quy mô Tín Nghĩa Ngân Hàng.
Chứng cứ tới đâu thì không biết, nhưng tháng 3-1973, chủ
nhà băng Nguyễn Tấn Đời bị cảnh sát bắt tống vào Chí Hòa... Còn tôi, sau sự cố ấy
cũng rời ngân hàng ra ngoài kinh doanh để nuôi hơn chục đứa con. Lúc này, thỉnh
thoảng tôi vẫn gọi cho anh em quen như Đề Đốc Hải Quân Chung Tấn Cang, Tướng Lý
Tòng Bá. Việt Cộng đánh rộ khắp nơi. Cũng đã có vài thông tin, vài bàn tay chìa
ra cho chế độ ông Thiệu... nhưng chỉ là lời thăm dò, không có gì chắc chắn cả. Cuộc
cờ đã tàn chăng?…” Sài
Gòn bao trùm không khí hoảng loạn. Thực ra sự hoảng loạn đã kéo dài cả tháng
trước đó. Những tuyên bố ban đầu của chính quyền khi mất Đà Nẵng, Huế, Ban Mê
càng ngày càng khiến anh em quân nhân dao động. Người ta ùn ùn kéo nhau
rời thành phố chạy ra biển tìm đường di tản. Trong gia đình tôi cũng đã có ý
kiến rục rịch đi. Nhưng tôi lo ngại bởi những người di tản bằng đường thủy
nhiều người đã chết. Tôi quyết: “Hễ đi thì đi cả nhà, phải an toàn mới đi. Nếu
không thì tất cả cùng ở lại!”. Đề Đốc Chung Tấn Cang gọi điện cho
tôi, nói tàu của ông ấy lúc nào cũng đậu ở Ba Son, khi nào thấy tình hình không
êm, ông ấy sẽ đưa cả gia đình đi di tản và mang theo cả gia đình tôi. Thế nhưng
sau đó trước dòng người đông nghẹt giẫm đạp nhau ào xuống cảng, ông ta đã không
dám ở lại, lặng lẽ nhổ neo. 15 giờ ngày 29-4-1975, tôi đang ở nhà thì người nhà báo
có khách. Một sĩ quan của Phủ Tổng Thống do ông Dương Văn Minh cử tới, nói rằng:
“Đại tướng cho mời Trung Tướng vào Bộ Tổng Tham Mưu”. Đến lúc ấy tôi mới biết
ông Minh đã cử tướng Vĩnh Lộc làm Tổng Tham Mưu Trưởng. Và ông ấy biết rằng lúc
ấy trong hàng ngũ quân đội, tôi mang hàm tướng cao nhất nên mời tôi làm trợ lý
cho Vĩnh Lộc cùng với ông Nguyễn Hữu Hạnh. Tôi vào Bộ Tổng Tham Mưu vào cuối buổi
chiều. Lúc bấy giờ ông Vĩnh Lộc đã bỏ chạy, chỉ còn tôi với ông Nguyễn Hữu Hạnh
và một số tướng lãnh như Trần Văn Trung, Văn Thành Cao. Sau khi mặc quân phục,
tôi bắt đầu điều hành công tác. Đã 8 năm tính từ 1967, khi đi Đài Loan
rồi lưu vong Hồng Kông, sau những dâu bể của cuộc đời, tôi lại mang vào mình bộ
quân phục cấp tướng. Một viên tướng của buổi cờ tàn. Tôi nói với sĩ quan tham
mưu kiểm tra gấp bộ phận truyền tin. Rất may, Đại Đội Truyền Tin còn nguyên
vẹn. Và biết Sài Gòn bị vây tứ phía. Tôi điện lên Biên Hòa. Lúc này
tướng Lê Minh Đảo cũng vỡ trận ở Long Khánh kéo quân chạy về đây. Chuẩn Tướng
Trần Văn Khôi cùng một sư đoàn thiết giáp nằm ở Biên Hòa với hy vọng mong manh
chặn được bước chân đối phương. Tôi gọi Cần Thơ và các tỉnh miền Tây, ở dưới đó
còn tương đối yên. Đêm 29-4, quân giải phóng nã pháo vào
Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi điều hành công việc trong tầm pháo suốt đêm ấy. Bản đồ
tác chiến và phòng thủ lúc này giống như những bức tranh treo chơi, không ai có
thể cập nhật nó, mới thấy chỗ này chỗ kia có quân nhưng gọi tới thì vỡ trận
hết. Tôi điều một tiểu đoàn Lôi Hổ về Bộ
Tổng Tham Mưu. Tướng Lâm Văn Phát cũng điều quân lên ngã tư Bảy Hiền để chặn
quân giải phóng, nhưng tinh thần binh lính đã cực kỳ hoảng loạn. Gần sáng, tôi
điện cho sư đoàn Đồng Dù của tướng Lý Tòng Bá nhưng ông Bá đã bị bắt, sư đoàn
này bị đánh tan tác. Chúng tôi nhìn nhau: Phòng tuyến Tây Bắc Sài Gòn đã vỡ.
Nhịp tấn công của đối phương quá nhanh. Vừa buông điện thoại, Đại Tá Huấn ở Trung
Tâm Huấn Luyện Quang Trung khẩn báo: "Xe tăng Việt Cộng đã chạy ngang đây
rồi!”. Trong khi đó, đạn pháo rót vào Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng Tham Mưu ngày
càng dữ dội. Chúng tôi nghĩ rằng giờ cuối đã đến và
đã đến lúc phải rời Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi và ông Nguyễn Hữu Hạnh quyết định đến
gặp ông Dương Văn Minh nhưng cả Bộ Tổng Tham Mưu đã táo tác, không còn xe. Và
lúc này, đi xe nhà binh có thể trở thành mục tiêu của những phát đạn. Tôi gọi
điện thoại cho người nhà mang xe lên đón đi. Chúng
tôi rời Bộ Tổng Tham Mưu. Chiến tranh sắp kết thúc, chắc chắn là thế. Nhưng giờ
này, chỉ cần một viên đạn cố tình hay đạn lạc từ phía nào, có thể sinh mạng của
tôi và Nguyễn Hữu Hạnh sẽ kết thúc sớm hơn cả cuộc chiến. Cả nội các hầu như có mặt đông đủ ở Dinh
Hoa Lan. Thật khó để diễn tả tâm trạng lúc ấy. Khi bạn đối mặt với những giờ
khắc quyết định, sau một quãng dài chinh chiến khốc liệt, mỗi người đều có tâm
thế chờ đợi nó kết thúc. Nhưng với chiến tranh, kết thúc có nghĩa là có chiến
thắng và có chiến bại. Mỗi con người đều có hoài bão, sự nghiệp và trên hết là
gia đình, vợ con. Ký ức như một dòng thác cuộn về, thật nhanh, thật dữ dội và
mãnh liệt. Tôi không bất ngờ với kết cục, nhưng
sau nó là gì? Thân phận cá nhân, cuộc sống gia đình, thật khó để nói về tương
lai. Lúc đó tôi chỉ nghĩ: chiến tranh sẽ kết thúc trong thời khắc rất ngắn, có
thể đếm được. Ông Dương Văn Minh cho biết Đại Sứ
Pháp vừa thông báo rằng hy vọng đàm phán với Hà Nội đã không còn. Thực ra,
người ta chỉ đàm phán khi chúng ta có gì để đối trọng. Tình thế này, còn gì nữa
để đàm phán. Thế cờ đã quá rõ. Những ngày trước, Xuân Lộc và Long Khánh đã mất,
kết cục này đã được dự báo, dù cá nhân mỗi tướng lãnh vẫn còn hy vọng mong
manh. Quân giải phóng đã phá vỡ phòng tuyến Tây Bắc áp sát Sài
Gòn từ hôm qua. Cầu Rạch Chiếc và nhà máy nhiệt điện Thủ Đức được mấy tiểu đoàn
Trâu Điên liều chết bảo vệ cũng đã bị đặc công Việt Cộng chiếm. Không thể mong
chờ nhiều ở sự chi viện từ miền Tây khi đường chi viện đã bị cắt đứt. Việt Cộng
đánh các phòng tuyến ngoại vi trong khi đặc công và các lực lượng khác của họ
thọc sườn xé lẻ các mũi liên kết chi viện. Không cần có quá nhiều kiến thức
quân sự để nhìn rõ thế cờ và dự đoán được kết cục. Ngồi ở Dinh Hoa lan một lát, tất cả
lên xe vào Phủ Tổng Thống. Lúc này có mặt cả tướng Pháp Vanuxem, ông ta là
người dạy quân sự cho tôi và Nguyễn Văn Thiệu từ năm 1952. Vanuxem nói rằng có
thể nhờ lực lượng bên ngoài chi viện để cứu vãn tình thế, giúp giữ Sài Gòn. Thế
nhưng lúc này chẳng ai có thể tin vào điều đó. Ông Dương Văn Minh hỏi tôi và
tướng Nguyễn Hữu Hạnh: "Tình hình thế này, bây giờ nên làm gì?". Tôi
nói: "về quân sự lúc này càng đánh càng tổn thất. Lúc này Đai Tướng cần
tuyên bố đơn phương ngừng bắn để tất cả binh sĩ buông súng chờ bàn giao chánh
quyền!". Ông Minh làm theo, cho thu âm lời
tuyên bố rồi tất cả lên xe vào Dinh Độc Lập để chờ quân cách mạng tới. Sau 11 giờ trưa 30-4-1975, tôi không
còn chuyện gì để làm nữa. Rời Dinh Độc Lập, tôi quyết định về nhà. Việc ông
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng sau đó như mọi người đã biết. Gần 40 năm từ một thiếu sinh quân Đông
Dương, tôi đã lên đến nấc thang cao nhất của đời binh nghiệp. Và bây giờ, nó đã
ở sau lưng, nói được thì cũng đã từng được, nói mất thì cũng mất hết rồi. Chỉ
hai điều quý nhất còn nguyên: Một quê hương và một gia đình! Tôi thả lỏng
người, nhắc mình: tất cả đều đã qua. Những ngày sau đó, tâm trạng của tôi
thật nặng nề. Là sĩ quan cao cấp nhất trong quân đội, tôi chắc chắn sẽ phải đi
học tập cải tạo. Tôi có mười hai đứa con, một mình vợ tôi sẽ phải xoay xở lo
cho chúng. Thế rồi như những gia đình khác, chúng
tôi cũng phải chia sẻ với cộng đồng những khó khăn của một thành phố mới giải
phóng. Những năm tôi đi học tập, vợ tôi ở nhà làm đủ thứ nghề từ thêu thùa, may
vá, gia công hàng để nuôi con. Rồi tôi trở về, rất lâu mới trở về, thành công dân như mọi
công dân khác, một người lao động đúng nghĩa. Với chiếc mô-bi-lết cà tàng, tôi
đi giao hàng của gia đình gia công, rồi ra Vũng Tàu thu mua chế biến mực, xuất
khẩu đi nước ngoài. Chúng tôi có tới 12 người con, bốn con đang ở Mỹ, một ở
Pháp. Các con tôi tuy làm những công việc khác nhau nhưng đủ sống. Tôi đã cùng
vợ qua bên Mỹ chơi thăm bạn bè, không hề bị ai cấm đoán hay ngăn cản. Cuộc sống dần trở về nhịp điệu bình
thường của nó, ông Trung Tướng Tổng Trưởng Quốc Phòng lại trở về làm dân, lao
động chân chính để sống như muôn triệu người khác. Có những ngày chạy xe máy đi
giao hàng tận Bình Dương, gió mát dọc đường khiến tôi thanh thản. Thanh thản
trong sự lao động nuôi sống gia đình. Quyền lực đã là dĩ vãng. Ra đường
người ta chào mình là bác là ông, thật sự tôi thấy hạnh phúc của cuộc đời này
nó bình dị và giản đơn nhất là khi ta làm một con người bình dị. Rồi tôi được
bầu vào Mặt Trận Tổ Quốc. Ngoài giờ cho công việc, tôi tham gia chuyện từ thiện
với bà con khu phố, chăm mấy chậu lan, an nhàn với tuổi già. Tôi là tín hữu đạo
Tin Lành, đọc kinh, đi lễ với tôi là niềm vui lớn.. Không còn chiến tranh, không còn bom
rơi đạn nổ trên quê hương mình là điều lớn nhất mà việc kết thúc chiến tranh
mang lại....".
Bài nầy
"copy" từ bài viết của Nguyễn Đức Hiền trên báo PLO, chỉ điều chỉnh
một vài lỗi chính tả...
|