Trước
đó thì ở ta có hiện tượng rất phổ biến này: Khi gặp nhau, trước bất cứ câu đối đáp
nào đều phải có nhóm thành ngữ “ơn Ðảng ơn Bác” đứng đầu. Thí dụ:
“Ơn
Ðảng ơn Bác, đồng chí có khỏe không?”
“Dạ, ơn Ðảng ơn
Bác lâu nay tôi ốm mãi, ơn Ðảng ơn Bác tôi mới xuất viện được 2 hôm nay.”
“Ơn
Ðảng ơn Bác thế mà em không hay biết gì...”
Sau
hàng tháng phát động đấu tranh kiểm điểm ở từng cơ quan để bỏ chữ Bác đi và
thay thế bằng: “Ơn Ðảng ơn Chính phủ”:
“Ơn
Ðảng ơn Chính phủ vụ mùa này thu hoạch có đủ nộp không?”
“Ơn
Ðảng ơn Chính phủ nhà em có con lợn mới độ 30 ký đang lớn, thanh niên cờ đỏ vào
bắt nợ rồi, được bao nhiêu thóc đong hết sạch mà còn thiếu phải bù bằng lợn...”.
Dân
tộc Việt Nam là một dân tộc liên tiếp bị đô hộ, hết Tàu đến Tây, đến Nhật, đến
Mỹ& Cái khao khát, cái đói cố hữu của dân tộc này là đói độc lập, tự do, cơm
áo. Khi thấy Ðảng hứa đem lại những thứ ấy cho thì người dân tin tuyệt đối vào
Ðảng. Ðảng bảo gì họ theo nấy, bảo phá nhà thì phá nhà, bảo bỏ ruộng thì bỏ ruộng,
bảo bỏ bố bỏ mẹ, bỏ vợ bỏ chồng, bỏ Trời bỏ Phật, bỏ được tất, còn dễ hơn từ bỏ
đôi dép rách. Anh đội trưởng cải cách chỉ là một sứ giả của Ðảng mà dân cũng đã
tin hơn trời: “Nhất đội nhì trời”.
Lòng
dân tin vào Ðảng không thước nào đo được, nên khi phát động để phủ nhận một điều
gì Ðảng đã chủ trương trước kia, thật là vô cùng khó khăn. Nguyên chỉ để thay đổi
câu “Ơn Bác ơn Ðảng” và kiểm điểm những việc làm trước kia có tính chất sùng
bái cá nhân mà cũng mất hàng tháng phát động ở mọi cơ quan.
Khẩu
hiệu là “Nói thẳng, nói thật, nói hết để xây dựng Ðảng!” Không những nói mồm mà
còn viết lên các báo. Không những viết lên các báo nhà nước mà còn khuyến khích
mở báo tư nhân để viết. Vì thế mới có Nhân Văn, Giai Phẩm của chúng tôi. Và Trăm
Hoa của Nguyễn Bính.
Bài
thơ “Màu Tím Hoa Sim” của tôi (từ trước vẫn do dân tự tiện truyền tụng ngầm, bất
chấp lệnh nghiêm cấm của những tướng trấn ải giáo điều), được đăng công khai lần
đầu tiên báo Trăm Hoa. Nguyễn Bính còn cho thuê taxi có loa phóng thanh đi quảng
cáo khắp Hà Nội là Trăm Hoa số này có thơ “Màu Tím Hoa Sim” của Hữu Loan. Mấy
tháng sau tôi đi cải cách ruộng đất, làm bài thơ “Hoa Lúa”, 22 anh em nhà báo
nhà văn đi cải cách truyền tay nhau chép. Chị Bạch Diệp báo Nhân Dân xin chép đầu
tiên, nhưng ý trung nhân của chị là anh Xuân Diệu ở báo Văn Nghệ không đăng, bảo
là thơ tình cảm hữu khuynh, mất lập trường. Trần Lê Văn đến mách với Nguyễn
Bính, Bính đến xin ngày bài “Hoa Lúa” về đăng trên Trăm Hoa. Anh Bính còn làm một
cử chỉ rất hào hùng là đem đến trả cho vợ tôi 15 đồng nhuận bút, trong khi đăng
Văn Nghệ chỉ được 7 đồng. Anh bảo với vợ tôi: “Hữu Loan ở nhà thì tôi xin (tôi
vẫn viết không lấy nhuận bút để giúp những tờ báo nghèo, mới ra), nhưng Hữu
Loan đi cải cách chị cũng cần tiêu (15đ bằng 150.000đ bây giờ). Một chỉ vàng
lúc ấy mới 20 đ. Nói ra điều này để thấy rằng mức sống của người cầm bút hiện
nay đã vô cùng xuống dốc. Nhuận bút của cả một quyển sách hiện nay không bằng
tiền của một bài thơ Nguyễn Bính trả cho tôi. Nhà thơ Tố Hữu đã có dự báo thiên
tài: “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng!” Từ ấy đến giờ xuống dốc tuồn tuột không
phanh, không thắng...
Chính
sự xuống cấp thảm hại trong đời sống đã là nguyên nhân chính trong việc lưu
manh hóa một số nhà văn, họ đã phải uốn cong ngòi bút, cũng như trong việc in
sách đen sách trắng vừa rồi.
Phóng
viên: Xin bác cho biết lại về vụ “Nhân văn”.
Hữu
Loan: “Nói thẳng nói thật, nói hết, để xây dựng Ðảng”. Không những chỉ có Nhân
Văn hay Trăm Hoa mới nói thật, mà cả nước nói thật. Cả nước kêu oan. Những “Ban
Giải Oan” đã thành lập để vào trong các nhà tù giải oan cho hàng vạn người bị cải
cách quy oan...
Nhưng
đã ăn thua gì. Ðơn từ kêu oan từ các nơi gửi về tòa soạn Nhân Văn thật đã cao bằng
đầu, như “đống xương vô định”. Nhân Văn đã xếp thành văn kiện chuyển cho Trung Ương
Ðảng nghiên cứu để thay đổi chính sách. Thật ra Nhân Văn chỉ khái quát tình
hình để đúc thành lý luận. Bài báo bị cho là phản động, phản Ðảng, phản dân nhất
của Nhân Văn là bài “Vấn đề pháp trị” do Nguyễn Hữu Ðang viết (bài này có tên
“Cần phải chính quy hơn nữa”, đăng trên Nhân văn số 4, ở vị trí xã luận, trang
1 và trang 2, ngày 5.11.1956 của Nguyễn Hữu Ðang - talawas) có ý nói “...sở dĩ chỗ nào cũng có áp bức chà đạp lên con
người là vì chưa có pháp luật rõ ràng. Tòa án là một tòa án tha hồ tùy tiện còn
hơn Tôn Giáo Pháp Ðình của giáo hội La Mã hồi Trung Cổ. Muốn bắt ai thì bắt, muốn
xử ai thì xử, bịa ra luật nặng nhẹ tha hồ để xử&”. Bài báo kêu gọi cần
phải phân quyền thì người dân mới có bình đẳng trước pháp luật...
Sau
hơn ba mươi năm do tình trạng pháp luật tùy tiện mà xã hội xuống cấp một cách tệ
hại như hiện nay. Vấn đề hàng đầu đang đặt ra để giải quyết cũng là mấy vấn đề
pháp trị mà Nguyễn Hữu Ðang đã đặt ra cách đây hơn 30 năm (mà phải nói đây là vấn
đề sống còn của chế độ). Không có một cộng đồng nào mà thành viên nào cũng chứa
toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh, không người nào biết phải biết
trái, mà sống nổi lâu dài. Nhân loại sinh ra để hợp tác với nhau, để tin nhau
là chính, mới sống được đến giờ. Ngày xưa, ngay hồi Pháp thuộc cả một vùng lớn
như một huyện mới có độ 5 - 6 tên trộm mà trộm không được pháp luật bênh như thế,
mà dân cũng còn lo ngay ngáy cho số phận trâu bò của cải của mình. Còn bây giờ
thì chỉ một thôn thôi cũng có hàng vài chục tên trộm cướp công khai, coi thường
pháp luật thì hỏi người dân còn an cư thế nào để lạc nghiệp được?
Một
vấn đề nữa Nhân Văn đặt ra là “Vấn đề Trần Dần” đăng trong Nhân Văn số 1, có
chân dung Trần Dần to tướng với một vết dao lam cứa cổ to tướng do danh họa
Nguyễn Sáng vẽ (Bài này do Hoàng Cầm viết với tên “Tiến tới xét lại một vụ án văn
học: Con người Trần Dần”, đăng trên Nhân Văn số 1, trang 2 và trang 4, ngày
20.9.1956 - talawas). Từ trước ai cũng một lòng tin Ðảng, cả trong lĩnh vực văn
học. Tự Liên Xô đưa về rồi tự Diên An đưa sang, tài liệu hiện thực xã hội chủ
nghĩa, tức là con đường đi lên trong văn học nghệ thuật. Nghĩa là văn nghệ chỉ được
nói đến cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa có, chưa biết bao giờ mới có chứ
không được nói đến những cảnh trộm cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước mắt.
Rất hiếm những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa hàng trưởng tốt, phải nói hầu hết
là ăn cắp, thi nhau để ăn cắp, nhưng văn học không được nói thực mà phải dựng
lên toàn là những người lý tưởng. Luận điệu thuộc lòng là: “Không có ăn cắp mới
lạ, có ăn cắp là tất nhiên. Ðấy là thứ sốt rét vỡ da của nhân vật khổng lồ, của
một chế độ khổng lồ!”.
Cũng
thành khổng lồ thật nhưng lại là khổng lồ đi xuống, một thứ quỷ khổng lồ hay một
thứ khổng lồ không tim như đã dự báo trong một truyện ngắn ở Nhân Văn (Truyện
ngắn “Thi sĩ máy” của Châm Văn Biếm, Nhân Văn số 5, trang 3 và trang 4, ra ngày
20.11.1956 - talawas).
Ðường
lối đó ở ta đã được ông Trường Chinh tiếp thu và bảo vệ, và truyền giáo như một
thánh tông đồ xuất sắc.
Một
người nhà báo hỏi ông: “Như vậy là Cách Mạng đã cấm tự do ngôn luận?” Ông Trường
Chinh sửng sốt: “Anh nói sao? Các anh được tha hồ tự do chửi đế quốc đó thôi!”
Như
thế là đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa đã cấm hẳn hiện thực phê phán là thứ
vũ khí sắc bén nhất của báo chí để cải tạo kịp thời xã hội. Lý luận hiện thực
XHCN này được học tập ráo riết trong quân đội, trung tâm đào tạo những tông đồ để
áp dụng và đi phổ thuyết về “con đường đi lên” là Tổng Cục Chính Trị lúc bấy giờ
do ông Nguyễn Chí Thanh làm Tổng Cục Trưởng và ông Tố Hữu làm Tổng Cục Phó.
Trong số văn nghệ sĩ phản đối đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa có Trần Dần,
Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Tử Phác& Có lẽ quyết liệt nhất là Trần Dần, nên Trần Dần
bị bắt giam và trong nhà giam Trần Dần đã dùng dao lam cắt “ven” cổ nhưng chỉ
toác da, chưa đứt đến “ven” thì đã kịp thời chặn lại.
Vì
thế mà có bài “Vấn đề Trần Dần” trong Nhân Văn số 1 như đã nói trên. Ðây là một
vấn đề văn học, hoàn toàn văn học. Ðây là một cử chỉ khí tiết của nho sĩ Việt
Nam trước cường quyền không bao giờ là không có, dù cường quyền có thiên la địa
võng đến đâu thì cái truyền thống đáng tự hào ấy, cái hồn thiêng của sông núi ấy
không tà khí nào làm mờ nổi. Trần Dần chỉ là hậu thân của những người đã viết
“Vạn Ngôn Thư”,
“Thất Trảm Sớ”& Cũng như vấn đề pháp trị của Nguyễn Hữu Ðang, vấn đề văn học
mà Trần Dần đòi xét lại cách đây hơn 30 năm hiện giờ vẫn đang rất là thời sự.
Cái tai họa lớn nhất hiện giờ vẫn là do khuyến khích tô hồng, đề cao người giả,
việc giả, hàng giả& Những người thấy trước tai họa, chân tình muốn ngăn chặn
tệ nạn xã hội tô hồng thì bị gán ngay cho cái tội bôi đen.
Ðáng
nhẽ những người như Nguyễn Hữu Ðang và Trần Dần phải được một giải thưởng quốc
gia, một cái giải vinh quang là đã đưa ra được giải pháp để cứu nguy cho dân tộc.
Nhưng trái lại, lại vu oan giá họa, đặt lên đầu họ cái án gọi là “Án Nhân Văn”.
Thực
ra Nhân Văn hưởng ứng lời Ðảng gọi: “Nói thật, nói thẳng, nói hết để xây dựng Ðảng”,
và chỉ đấu tranh cho tự do báo chí, tự do ngôn luận mong thực hiện tự do bầu cử
vào Quốc Hội, vào Chính Phủ. Chỉ cần thực hiện thật sự dân chủ nội dung của Hiến
Pháp là cũng đã lý tưởng rồi.
Hiện
nay báo Văn Nghệ cũng đang làm cái việc như Nhân Văn ngày xưa làm, cũng do được
kêu gọi, được giao trách nhiệm Nguyên Ngọc mới dám làm, và báo Văn Nghệ cũng đang
bị khép tội là mắc những lệch lạc nghiêm trọng. Có điều khác là: Nhân Văn ngày
xưa đơn độc, khi bị đánh không ai dám bênh, ngậm cái miệng cúi đầu mà mang án.
Còn bây giờ thì hoàn cảnh trong nước và ngoài nước đã khác. Không thể đóng cửa
mãi ở trong nhà và ngủ yên được mãi trên những sai lầm vô định. Khi Nguyên Ngọc
bị đánh, đã có báo chí khắp nơi lên tiếng, những bản kiến nghị đang tiếp tục gửi
về&
Nếu
phong trào tự do báo chí, phong trào ủng hộ Nguyên Ngọc và báo Văn Nghệ mà bị dập,
tức là bọn quan liêu cơ hội thắng thế, kết quả là xúc tiến sự sụp đổ toàn diện,
sự tổng khủng hoảng kinh tế cũng như chính trị và uy tín của Ðảng sẽ bị mất
hoàn toàn vì bọn chúng. Quần chúng sẽ mất hết tin tưởng vào Ðảng.
Từ
trước tới giờ: làm sai cũng là bọn cơ hội, kêu gào sửa sai cũng là chúng, rồi đàn
áp sửa sai cũng lại là chúng. Khi sai quá rồi không sửa thì dân không chịu nổi
phải nổ. Nhưng sửa đến triệt để thì cháy nhà lại ra mặt chuột, nên cứ nửa chừng
thì lại đàn áp sửa sai; chúng vu cho những người đã từng làm theo chúng tội rất
nặng, càng nặng thì quần chúng càng dễ quên tội của chúng và cho rằng những rối
loạn trước kia là do âm mưu bọn sửa sai gây ra. Chúng bàn nhau mưu kế dựng chuyện
theo bài bản, những ông trên không sát cũng phải tin như thật.
Chính
Nguyễn Hữu Ðang đã rơi vào trường hợp như vậy.
Ðang
là người giác ngộ cách mạng sớm. Anh là linh hồn của Hội Truyền Bá Quốc Ngữ mà
cụ Nguyễn Văn Tố là danh nghĩa. Dựa vào Hội TBQN, Nguyễn Hữu Ðang đã hoạt động
cho mặt trận Văn Hóa Cứu Quốc. Những nhà văn như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Ðình
Thi, đều do Ðang tổ chức vào mặt trận (Văn Hóa Cứ Quốc). Khi chính phủ vào Hà Nội,
Nguyễn Hữu Ðang là Trưởng Ban Tổ Chức lễ Tuyên Ngôn Ðộc Lập, sau làm Bộ Trưởng
Bộ Thanh Niên. Khi rút khỏi Hà Nội năm 1952-1953 vào Thanh Hóa, Nguyễn Hữu Ðang
là Tổng Thanh Tra Bình Dân Học Vụ. Năm 1954 tiếp quản thủ đô, Trung Ương cho xe
vào Thanh Hóa mời Ðang ra, muốn nhận Bộ Trưởng nào thì nhận, mời sinh hoạt Ðảng,
anh đều khước từ. Tôi hỏi vì sao, anh bảo:
“Nội
bộ thiếu dân chủ trầm trọng, mình bây giờ chỉ một mình một Ðảng.”
Sau
hỏi anh làm gì, anh xin về làm nhà in, trình bày cho báo Văn Nghệ.
Mãi
đến gặp phong trào “Trăm Hoa”, Ðảng phát động cho viết báo tự do, lại cho mở
báo riêng thì anh Ðang mới ra làm Nhân Văn.
Anh
Ðang là một người rất có khả năng về chính trị cả về lý luận lẫn tổ chức, lại
là một người rất hay giúp đỡ anh em và rất giữ lời hứa. Ðể một người có tài có đức
như vậy thì bọn cơ hội hết đường xoay xở nên phải đánh. Một mặt phải phát động
tố điêu dựng tội (như hồi cải cách dựng địa chủ) để đưa Nguyễn Hữu Ðang lên
thành phản động đầu sỏ. Một mặt sai điều động từ Thanh Hóa ra, từ các nơi về,
hàng 6 Sư Ðoàn để về vây thủ đô đề phòng bọn Nhân Văn làm phản (trong khi Nhân
Văn chỉ mấy thằng đi kháng chiến về, đói rách trói gà không nổi). Việc điều động
một lực lượng quân đội lớn như vậy mãi sau tôi về quê gặp những người ở trong
các đơn vị ấy nói lại tôi mới biết.
Khi
học tập, dựng tội cho Nguyễn Hữu Ðang xong, cả lớp học sát khí đằng đằng hò hét
nào là tên Ðang, nào là thằng Ðang phản động đầu sỏ. Mọi người ký vào kiến nghị
lên Trung Ương Ðảng đòi xử tội đích đáng Nguyễn Hữu Ðang. Tôi là người duy nhất
đã ký như sau: “Khi Nguyễn Hữu Ðang hoạt động với tôi, tôi thấy Nguyễn Hữu Ðang
là người có tài, có đức, tội trạng mới đây của Nguyễn Hữu Ðang tôi chỉ tai
nghe, mắt không thấy, tôi không dám kết luận. Ký tên: Hữu Loan”
Thế
là Nguyễn Hữu Ðang bị kết án 17 năm tù, mới đi được 7 năm thì nhờ đâu có sự can
thiệp của Nhân Quyền Quốc Tế nên anh được tha. Ðáng nhẽ không thưởng, không giải
oan cho Nguyễn Hữu Ðang thì im quách đi cho nó xong, đừng nay gào mai gào “Vụ
Nhân Văn là một vụ án chính trị!”. Gào như vậy nhưng nếu có ai hỏi đến để tìm
hiểu lịch sử thì lại bảo “Ðó là vụ án đã qua, bọn Nhân Văn đã nhận tội không
nên nhắc đến nữa!”.
Nếu
không nhắc Nhân Văn, sao người ta vẫn nhắc đến phát-xít Hitler, đến Stalin, đến
Pol Pot? Thậm chí bọn vua chúa hay Pháp, Nhật, Mỹ... đã đi từ lâu rồi, mà bao
nhiêu vụ ăn cắp cũng là do phong kiến đế quốc, bao vụ cưỡng hiếp phụ nữ trong cơ
quan cũng là do phong kiến đế quốc, mặc dù những người thực hiện các vụ ấy đều
thuần túy xã hội chủ nghĩa gốc Việt.
Hitler,
Stalin, Mao Trạch Ðông có cấm nói đến mình được mãi không, dù là những bạo
chúa, những nhà độc tài cỡ quốc tế?
Ngoài
Nguyễn Hữu Ðang còn có thêm những người này: Phùng Cung, tác giả truyện ngắn
“Con ngựa già của chúa Trịnh” (Truyện ngắn này đăng trên Nhân văn số 4, trang
3, ngày 05.11.1956) bị kết án 7 năm tù giam. Vũ Duy Lân (Bộ Nông Lâm, bị nghi
là cho Nguyễn Hữu Ðang một áo len khi đang đi tù): bị giam 7 năm mới tha. Giám
Ðốc Nhà Xuất Bản Minh Ðức: 17 năm như Ðang.
Nhà
nước xuất bản thì lúc nào cũng kêu lỗ, mặc dù in nhiều hơn Minh Ðức mà trả quyền
tác giả lại rất rẻ mạt. NXB Minh Ðức xuất bản những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng,
mời con gái của Phụng lên lĩnh nhuận bút mà còn bỏ tiền về Hà Ðông xây mộ cho
Vũ Trọng Phụng. Minh Ðức định xuất bản Kiều để vào xây mộ cho Nguyễn Du nhưng bị
bắt. Ngoài ra từ 1954 đến 1956 Minh Ðức còn mua được Ệ nhà ưu giá 30.000đ (bằng
150 cây vàng). NXB Minh Ðức làm ăn lời lãi như vậy mà ngoài anh ta ra chỉ có
thêm vài người giúp việc. Còn những nhà xuất bản của nhà nước thì nhà nào cũng
rất đông người làm mà chả được bao nhiêu việc, nhà nào cũng kêu lỗ, nhưng vẫn cứ
cố bao nhiêu rơm cũng ôm.
Xưa
nay bất cứ ai nhận một công việc gì đều phải có trách nhiệm với công việc ấy,
công việc càng khó khăn, lớn lao trách nhiệm càng nặng nề, ở ta lại toàn chuyện
ngược đời. Một lái xe chặn chết người muốn sửa sai không được, anh phải đi tù,
phải tước bằng. Anh bác sĩ chữa bệnh làm chết người cũng thế, phải tước bằng và
đi tù. Ðấy là những người làm chết ít người. Còn những người cầm vận mệnh của cả
nước đã làm cho đồng bạc mất giá hàng vạn lần, làm cho hầu hết công nông trường
xí nghiệp phá sản, cho 90% con cái gia đình thành lưu manh, cho 50% trẻ em mất
dinh dưỡng, còn giết oan bao nhiêu người có tài, có đức, còn phá phách bao nhiêu
công trình văn hóa lịch sử. Những con giun bị đạp gào lên: “Sai rồi!” thì họ rất
bình tĩnh trả lời: “Sai thì sửa!” hoặc bất đắc dĩ phải sửa thì không sửa chân
thành.
Họ
vẫn núp dưới cờ Ðảng để đi từ sai lầm tày trời này đến sai lầm tày trời khác. Họ
đang làm cho dân không còn tin vào Ðảng. Họ xúc phạm vào anh linh những đảng
viên ưu tú đã nằm xuống. Họ coi thường những Ðảng viên ưu tú đang sống, đang
không ngớt đấu tranh để thể hiện những tính cách vô cùng cao quý của người cộng
sản cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, khổ trước sướng sau v.v& Hỡi những
người Ðảng viên quang vinh của Ðảng Cộng Sản vô cùng quang vinh, người dân đau
khổ lâu đời lúc nào cũng đứng bên các bạn.
(xem tiếp Bài 5)