Nhà thơ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2 tháng 4 năm
1916 (nhưng theo lời ông Hữu Loan thì đó là năm sinh khai trong lý lịch, còn thật
sự thì ông sinh vào năm 1914), trong một gia đình tá điền... Hồi còn nhỏ vì nhà
nghèo nên Hữu Loan không được cắp sách đến trường như bao đứa trẻ cùng trang lứa
khác, chỉ học tại nhà có bữa được bữa không do cha ông dạy dỗ. Tuy là một tá điền
nhưng cha của Hữu Loan nhờ tư chất thông minh, nên hiểu biết nhiều, ông dạy cho
Hữu Loan học hết bậc tiểu học. Lên trung học, theo ban thành chung, Hữu Loan
cũng không thể ra Hà Nội hoặc vào Huế để học (vì nghèo), nên chỉ học tại Thanh
Hóa mà thôi...
Vào năm 1938, Hữu Loan ra Hà Nội thi lấy bằng Tú Tài Pháp... mà ông cho rằng
không phải đi thi mà đi “đua tài”. Chữ “đua tài” ở đây không phải là để “thăng
quan phát tài” mà chỉ để chứng minh rằng con của một tá điền như ông cũng đỗ đạt
cao, chứ không chỉ có các cậu ấm con nhà giàu mới đỗ đạt được!”. Và kết quả, lần
“đua tài” đó, Hữu Loan đã chứng minh được sự suy nghĩ của mình là đúng. Khi
nhìn thấy tên ông trên bảng vàng, nhóm sĩ tử con nhà giàu lần đó trố mắt, ngạc
nhiên nhìn ông thay vì coi thường ông như khi mới bước vào trường thi... Thời bấy
giờ, chuyện đậu được bằng Tú Tài (Pháp) không phải là chuyện dễ, vì số người được
chấm đậu rất ít, và sau đó dầu thời gian trôi qua đã lâu, nhưng nhiều người vẫn
còn nhớ được tên tuổi của những người trúng tuyển trước đó. Hữu Loan kể rằng
các ông Nguyễn Ðình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Ðỗ Thiện... là những người
cùng dỗ cùng khoa với ông.
Năm 1936, Nguyễn Hữu Loan tham gia Mặt Trận Bình Dân, rồi sau đó tham gia
vào tổ chức của Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa... Trước năm 1945, Hữu Loan là cộng
tác viên trên các “tập san văn học” xuất bản tại Hà Nội. Sau Cách Mạng Tháng Tám,
ông được đề cử làm Ủy Viên Văn Hóa trong Ủy Ban Hành Chính Lâm Thời tỉnh Thanh
Hóa. Thời gian này có lần trong một cuộc họp, Hữu Loan đã không kềm chế được
mình, nhảy lên bàn, đấm thẳng vào mặt người đang giữ “túi cơm, manh áo” của
kháng chiến (người này đã ăn xén bớt của anh em mà còn phát biểu... láo khoét”.
Sau việc này, Hữu Loan bỏ về quê đi cày. Sau đó, biết được Hữu Loan là người cương
trực (giang hồ mà lịch duyệt), “lưỡng quốc tướng quân” Nguyễn Sơn cho mời về
làm việc tại Sư Ðoàn 304 của ông ta.
Sau khi hiệp định Genève được ký kết (1954), Hữu Loan về làm biên tập
viên tại Báo Văn Nghệ, ông cưới bà Phạm Thị Nhu, sau đó cũng tiếp tục làm việc
tại báo Văn Nghệ cho đến khi bị tù vì vụ “Nhân Văn Giai Phẩm” (1956-1957)...
Những bài viết của Hữu Loan trong giai đoạn nầy như “Cũng Những Thằng Nịnh
Hót” và truyện ngắn “Lộn Sòng”, với nội dung nhằm vạch trần dã tâm của những
tên cán bộ Cộng Sản chỉ biết nịnh hót, đố kỵ, ám hại nhau để tiến thân... Khi
phong trào “Nhân Văn Giai Phẩm” bị chính quyền Miền Bắc tiêu diệt (1958), Hữu
Loan bị đi tù, sau đó vài năm được thả ra, nhưng ông vẫn bị giam lỏng tại địa
phương.
Bài thơ “Màu Tím Hoa Sim” do ông sáng tác trong thời gian tham gia kháng
chiến chống Pháp, được lưu hành trong vùng kháng chiến, nhưng đến khi ông bị
dính vào vụ “Nhân Văn Giai Phẩm” thì “bài thơ” nầy bị cho là có “nội dung nặng
nề tình cảm ủy mị, mang nặng tư tưởng tiểu tư sản, làm ảnh hưởng tiêu cực đến
tâm lý quân dân... “.
Bị giam lỏng tại địa phương, Hữu Loan không thể viết lách gì được nữa, nên
phải đi thồ đá đem bán để nuôi sống đàn con trước sau cả chục người... Cuộc sống
khổ cực như vậy của ông kéo dài đến ngày 18 tháng 3, 2010, thì mất. Ông ra đi
thật bình thản tại căn nhà nghèo nàn mà ông dựng nên tại quê nhà Thanh Hóa.
Tại Miền Nam (sau 1954) người ta ít biết về Hữu Loan, nhưng khi có bài ca
“Những Ðồi Hoa Sim” của Dzũng Chinh, “Áo Anh Sứt Chỉ Ðường Tà” của Phạm Duy,
“Chuyện Hoa Sim” của Anh Bằng... thì người ta mới tìm hiểu về nhà thơ đầy truân
chuyên nhiều đau khổ nầy ...
Sau ngày đất nước nối liền Nam - Bắc, nhà thơ Hữu Loan đã già, không còn
bị kèm kẹp nữa, ông mới có thể kể lại đời mình trên uminhcoc.com:
"Tôi sinh ra trong một gia đình
nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa,
chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên
trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra
Huế hoặc Hà Nội học. Ðến năm 1938, lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú
tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi
không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời
Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục
năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có
Nguyễn Ðình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Ðỗ Thiện và ...
Tôi - Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú
tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà
nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con
trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Ðái Thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Ðỗ
Kỳ , Tổng Thanh Tra Canh Nông Ðông Dương, sau này đắc cử Dân Biểu Quốc Hội khóa
đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường
ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là
một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như
người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó
mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: 'Em chào thầy ạ!'.
Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Ðôi mắt to, đen láy,
tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời.
Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Ðỗ Thị Ninh, cha làm Thanh Tra
Nông Lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông
minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ
non'. Ðặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm
chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa
hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng
tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt...
Có lần tôi kể
chuyện 'bà cụ non' ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến
tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồng trong, không
chịu học hành... Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi.
Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể
chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo
gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng
thông. Cả nhà không ai đồng ý: 'mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu'. Em
không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin
phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi...
Xe kéo chừng một
giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn
đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng
tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt
nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có
thích ăn Sim không?
Tôi nhìn xuống
sườn đồi: tím ngắt một màu Sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt
quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với
chiếc nón đầy ắp Sim. Những quả Sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả
Sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
- Ngọt quá.
Như đã nói, tôi sinh ra trong một
gia đình nông dân, quả Sim đối tôi với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa
bao giờ ăn những quả Sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng
tôi ăn hết quả này đến quả khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi
môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì... tím đỏ một màu Sim. Tôi cười phá lên, em
cũng cười theo!
Cuối mùa Ðông
năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi
lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ
đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ
bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá Sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả
và lầm lũi đi... Tôi quay đầu nhìn lại... em vẫn đứng yên đó... Tôi lại đi, và
nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa...
Những năm
tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn
khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều
chàng trai đến ngỏ lời cầu hôn, nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp
ai bao giờ ...
Chín năm sau,
tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất
nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không
còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái
xinh đẹp...
Yêu nhau lắm
nhưng tôi vẫn lo sợ, vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi
sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm
soạn kịch bản'.
Một tuần sau đó,
chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới
trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: 'yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái
tình bền chặt là hơn cả'. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay... lại đẹp trai
nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Ðám cưới được tổ chức ở ấp Thị
Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Ðỗ Kỳ có hàng
trăm mẫu ruộng. Ðám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn
bao giờ hết!
Hai tuần phép
của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo Sư Ðoàn
304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi
chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn
đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại... Nếu như chín năm về
trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn.
Ðôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau,
tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày
25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp
Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi, nên trượt
chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn
lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm
qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng,
không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ.
Tôi như một cái xác không hồn... Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội
hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra,
nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng
tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước,
tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc
cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh...
...
Tôi về không gặp
nàng...
Về viếng mộ
nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào
chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa... Anh bạn này đã chép lại và
truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Ðó là bài thơ Màu Tím Hoa
Sim.
Ðến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu
Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang 'ở nhà trông vườn' ở
làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chỗ 'quê đẻ của tôi đấy' thuộc xã Mai Lĩnh,
huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa
mặc áo màu tím hoa Sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa
cũng thường nở đầy những bông hoa Sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu:
Chiều hành quân, qua những đồi Sim
Những đồi Sim, những đồi hoa Sim
Những đồi hoa Sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa Sim, tím cả chiều hoang biền
biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất
tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm
ruộng, một phần cũng vì tính tôi 'hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì
trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch họe đủ điều, không chấp
nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa Sim của
tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!Ðó là thời năm 1955 - 1956,
khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm
chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản
bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải
có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà
không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong
khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời
hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng...
Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn
một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông... Tôi thấy đau xót, tôi
làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động... Tôi phản động ở chỗ
nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?
Bọn họ xúc phạm
đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên
vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt
tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi
bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ
xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe
cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút
kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh,
không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công
an theo dõi, cho người hại tôi... Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một
cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với
tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên
Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết
tôi.
(Xem tiếp Bài 3)