- Chữ “Vị” chứ không phải chữ “Vì” trong ý nghĩa của câu:
“Nghệ Thuật VỊ Nghệ Thuật Hay Nghệ Thuật VỊ Nhân Sinh”, vì đã có người đọc nhầm
rằng: “Nghệ Thuật VÌ Nghệ Thuật Hay Nghệ Thuật VÌ Nhân Sinh”.
***
Chúng ta, những ai đã từng tìm hiểu về văn học Việt Nam,
không thể quên được trận bút chiến giữa hai nhóm: một bên là nhóm ông Hoài
Thanh quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, và một bên là nhóm ông Hải Triều
quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Cuộc bút chiến này, đã diễn ra liên tiếp,
kéo dài trên các báo: Tin Văn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Tràng An, Ðời Mới... xuất
bản vào thời bấy giờ.
Ðây là bước khởi sự, là tiền đề cho danh xưng “chủ nghĩa
tả thực trong văn chương”, để rồi văn học toàn thế giới cho chào đời trường
phái “chủ nghĩa hiện thực”. Chưa dừng lại ở đây,
các tư tưởng gia, các nhà
phê bình văn học khối Cộng Sản còn “vẽ thêm chân” vào con “rắn hiện thực”
này tạo thành cái gọi “dòng văn học chủ nghĩa hiện thực xã
hội chủ nghĩa”. Trong bài viết tiếp theo, người viết sẽ có vài “phê phán” ở
dòng văn học “rắn thêm chân” này.
Ðể đi ngay vào đề tài, người viết xin trích nguyên văn
bài “Văn Chương Là Văn Chương” mà tác giả Hoài Thanh viết đăng trên
báo Tràng An thời bấy giờ. Ông là người khởi xướng cho nhóm nghệ sĩ thuộc
trường phái “Nghệ thuật vị nghệ thuật”:
“Văn Chương là Văn
Chương
(Ðáp lại ông Hải Triều
và ông Phan Văn Hùm trên báo Tin Văn)
Trước đây nhận thấy ông
Hải Triều phê bình quyễn “Kép Tư Bền” một cách sai lầm, tôi có bày tỏ một vài ý
kiến về cách phê bình ấy.
Tôi chỉ nhân một việc có
xảy ra - việc ông Hải Triều phê bình quyển “Kép Tư Bền” - mà bày tỏ một vài ý
kiến chứ không đề xướng hay bên vực một lý thuyết gì hết. Vì chẳng dấu gì các
bạn, tôi nhát gan lắm, cứ thấy bóng lý thuyết là sợ.
Có lẽ ông Hải Triều cũng
đã biết cái chỗ yếu của tôi nên nửa tháng sau tờ Tin Văn ông viết một bài dài 5
cột báo đưa ra một mớ lý thuyết cùng những danh từ to nhổn để dọa tôi. Nào:
Nghệ thuật vì xã hội đích sinh hoạt, nào: nghệ thuật là hệ thống tình cảm diễn
ra hình ảnh. Ông còn dọa tôi bằng một tràng chữ tây xen vào giữa bài văn quốc
ngữ, cùng một trang những câu trích của Flaubert, Plékhanov, Gide, Boukharine.
Thế cũng chưa đủ ông còn
cắt bài tôi gửi vào cho tay kiện tướng Phan Văn Hùm - chỉ nghe tên cũng đủ sợ.
Thế rồi cũng trên tờ Tin Văn, luôn trên 4 cột báo, tôi lại bị ông Phan Văn Hùm
dọa một lần nữa. Nhưng cái chiến lược của ông Hải Triều sơ suất chừng nào thì
cái chiến lược của ông Hùm bí hiểm chừng ấy. Một bên là Trương Phi, một bên là
Gia Cát. Hai bên đều đối phó cả hai. Con nhà văn quen giữ thói thanh nhã, đã
không có cách gì chống lại với vũ nghệ cao cường của Trương Phi giữa cái
bát-trận-đồ của Gia Cát, dẫu đưa hết trí hiểu biết, cũng không sao dò ra lối.
Tôi ví bài của ông Hùm
như bát-trận-đồ của Gia Cát cũng chưa đúng. Thực ra bát-trận-đồ còn dễ hiểu hơn
nhiều.
Các ông chơi ác dúi tôi
vào một chỗ các ông đặt tên là Nghệ thuật vị nghệ thuật rồi các ông tha hồ xông
vào mà tổng công kích.
Các ông bảo rằng tôi chủ
trương lý thuyết Nghệ thuật vị nghệ thuật. Úi chà! Oai quá! Tôi không dám, tôi
có chủ trương lý thuyết gì đâu. Trong bài tôi không hề có chữ ấy.
Các ông lại làm ơn báo
cho tôi biết rằng tôi chủ trương lý thuyết nghệ thuật vị nghệ thuật tất là lấy
văn chương phụng sự một giai cấp nào đấy, nhưng quyết không phải là giai cấp
lao động.
Thì các ông còn phải dè
dặt làm gì? Các ông cứ nói rằng các ông về phe với người lao khổ còn tôi về phe
những người giàu những người đi bóc lột anh em lao khổ, cứ nói như thế dễ hiểu
hơn không? Các ông khôn lắm đó, các ông. Cái hay, cái tốt, các ông dành hết
phần các ông; còn cái dở, cái xấu, thì các ông nhét cho tôi.
Ðáng lẽ, tôi là người đi
bóc lột, hay các ông là người đi bóc lột, cái đó hãy khoan nói đến. Tôi có phát
biểu một ý kiến về văn chương, các ông cũng phát biểu một ý kiến về văn chương,
ta hãy xem ý kiến ai đúng, ai không đúng. Ðằng này các ông chỉ phê cho một câu:
“Ý kiến thằng cha Hoài Thanh này là ý kiến của tụi giàu, nó ở bên kia mặt trận
tất nhiên nó làm gì, nó không thể nhận thấy được cái lẽ phải của chúng ta”.
Tôi đọc bài của hai ông
đọc đi đọc lại rồi ngẫm nghĩ tôi chỉ thấy hai ông trách tôi ở chỗ này: không
cho nhà văn làm công việc xã hội. Sao các ông không thấy trong bài trước tôi đã
có câu:
“Nhà văn là một người
sống giữa xã hội cố nhiên phải tùy sức mình, làm hết phận sự đối với xã hội,
tôi muốn nói nhà văn đến lúc phải bênh vực cái yếu, chống lại sức mạnh với tiền
tài, của súng đạn, nhưng trong lúc đó nhà văn không làm văn nữa mà chỉ làm phận
sự người cầm bút mà thôi. Ta nên nhớ rằng cầm bút chưa phải là viết văn. Văn
chương là vật quý có đâu được như thế”.
Cùng trong bài trước tôi
nhận rằng một quyển sách có tính cách văn chương vẫn cũng có thể đèo thêm những
tính cách khác như chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, v.v... Tôi chỉ muốn
người ta biết phân biệt các tính cách ấy trong lúc xét quyển sách về phương
diện nghệ thuật, phải để ý đến tính cách khác.
Một quyển sách cũng như
một người, bản thân nó muôn hình vạn trạng. Muốn cho dễ hiểu, tôi lấy một cái
thí dụ có lẽ không được nhã nhưng tiện lắm. Ông Hải Triều là một người bán
sách, bán báo ở Huế. Với tôi ông lại là người hay viết văn chữ Tây và chữ Nho
trên các báo quốc ngữ và hay trích các câu văn của Gide, của Boukharine, của
Flékhanov, của Flaubert, của Quách Mạc Nhược, v.v...
Vậy trong lúc tôi nói
chuyện với ông về văn chương, tôi cứ để ý đến ông Hải Triều bán sách, bán báo
cùng với các ông Hải Triều khác, thì người ta sẽ bảo tôi là điên.
Cho nên trong trí tôi
phải chia ra nhiều ông Hải Triều vì phải để mỗi ông một nơi, không lẫn lộn. Khi
tôi xem một quyển sách cũng vậy. Tôi phải phân biệt những tính cách phiền toái
của nó.
Xét kỹ ra, cái tính của
sự tiến hóa về tư tưởng là biết phân biệt. Ðối với người xưa nước chỉ là nước,
nhưng ngày nay nhờ khoa học tinh vi, người ta biết rằng nước gồm có hai chất
khinh khí và dưỡng khí hợp lại. Sự tiến hóa trong khoa học theo đường đi như
vậy, sự tiến hóa trong văn chương cũng thế. Người xem văn phải biết nhận cái
chân tướng lộng lẫy của văn chương đừng cho lẫn lộn với bao nhiêu cái khác cùng
đi theo với nó trong một quyển sách.
Tôi lại muốn người ta
nhận rằng một quyển sách chuyên tả nỗi khổ của kẻ lao động chưa hẵn là sách
hay. Hay là ở chỗ biết cách tả.
Trái lại, một quyển sách
không tả nỗi khổ của kẻ lao động, không có tính cách xã hội, như người ta
thường nói, nếu nó hay cũng phải nhận cái hay của nó và cái tài của người viết
ra nó. Cái đẹp của trăm hoa quý ở chỗ có hương sắc khác nhau. Nhà văn cũng vậy,
nếu vô luận nhà văn nào cũng phải viết lối văn có tính cách xã hội, cho dẫu
những người không có biệt tài về lối văn ấy cũng vậy, thì đã không ích gì cho
ai mà lại còn có hại. Kho tinh thần của loài người sẽ thiệt mất những tác phẩm
vô giá. Ðến đây tôi lại trích một câu văn của Gide, Gide nói:
“Người ta càng hay phát
triển cái bản sắc của mình lại càng giúp ích cho đoàn thể”.
Tôi không khuyên Nguyễn
Công Hoan viết lối văn đầy mộng ảo, thì sao các ông lại buộc Lưu Trọng Lư phải
viết lối văn của Nguyễn Công Hoan?
Hoài Thanh (Báo Tràng An
- 1935)
Ðể dẫn chứng tiếp cho cuộc bút chiến về quan niệm “Nghệ
Thuật vị Nghệ Thuật hay Nghệ Thuật vị Nhân Sinh”, người viết xin trích một bài
của ông Hải Triều:
“Ðáp lại bài ông Thiếu
Sơn trong Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 16-2-1935”
Vấn đề này tôi đã có hồi
bàn qua trong bài phệ bình cách giải thích chữ văn học của Sào Nam tiên sinh,
đăng ở báo Ðông Phương cũ. Nay ông Thiếu Sơn trong “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” số 38
lại nói đến. Tôi muốn thừa cuộc bút chiến này để giải bày cho được rõ cái quan
niệm của chúng tôi về nghệ thuật.
Ông Thiếu Sơn, người ta
thường bảo là một nhà viết văn sành mà lý sự lại già dặn. Nhưng ông sành ở đâu
chúng tôi không biết, ông già dặn ở đâu chúng tôi không hay, cho đến cái bài
“Hai quan niệm về văn học” thì nó tỏ ra lúng túng nông nổi làm sao!
Anh chị em, cũng như
tôi, ở đời không nhiều thì ít cũng có một tí gan - một tí mà thôi - nhưng cái
gan gì kia chứ chớ đến cái gan nói liều thì chúng ta hẵn thua ông Thiếu Sơn đi
rồi đấy.
Tôi không hay nói ngoa.
Thì anh chị hãy đọc: ”... theo luật tiến hóa của văn học sử Việt Nam cũng như
văn học sử các nước, những công trình sáng tạo thì còn, mà những công trình
khảo cứu sẽ chết.”
Bao quát nói rằng những
công trình khảo cứu sẽ chết thì không to gan đấy ư?
Ví như theo “luật tiến
hóa” của ông mà những “công trình sáng tạo” ấy trở lại phản tiến hóa thì ông
cũng nhất quyết cho nó sống ư? Ông Thiếu Sơn! Ông to gan hơn chúng tôi là ở chỗ
nói liều đó!
Ðây là lời tôi chỉ đưa
ra một cái luận chứng nông nổi của bài ông chớ trong bài ấy còn nhiều cái nữa
mà tôi không thể kể ra hết được.
Ông lại có ý bài xích
cái quan niệm về văn học của ông Phạm Quỳnh và cụ Nguyễn Bá Học. Cụ Nguyễn Bá
Học thì chết rồi. Ông Phạm Quỳnh thì còn sống đấy. Ông Quỳnh nếu có thì giờ sẽ
trả lời cho ông. Tôi không hơi đâu mà làm trạng sư cho một cụ Thượng về Bộ Giáo
Dục. Tôi muốn nói chuyện cùng ông về chỗ ông chủ trương “lấy nghệ thuật làm cứu
cánh cho nghệ thuật” mà tôi cho là quan niệm gàn dở và gian trá của phái nghệ
sĩ mà L.Tolstoi thường gọi là “bọn giặc trong nghệ thuật” (les forbans de
l'art).
Muốn nói chuyện cùng
ông, tôi bắt đấu giải thích “nghệ thuật” là gì đã.
I. Nghệ thuật là gì? Nhà
nghệ sĩ duy tâm bao giờ giải thích đến nghệ thuật thời cho là những cái sản vật
thần bí, mầu nhiệm của tình cảm và của “Ðấng Thiêng Liêng”. Vì thế nên họ cho
nghệ thuật có cái tính chất siêu phàm, huyền dịu, không quan hệ đến xã hội,
không dính dáng đến nhân sinh. Họ cao ngạo hơi lớn tiếng đề xướng thuyết “nghệ
thuật thuần túy” (l'art pur), “nghệ thuật thần tiên” (l'art olympien) hay “nghệ
thuật vị nghệ thuật” (l'art pour l'art). Trong đám nghệ sĩ ấy, không nói chúng
ta cũng biết, ông Thiếu Sơn đã làm một anh học trò dở dang, vì ông ấy muốn bênh
vực cho nó mà bệnh vực không ra trò.
Trái với phái nghệ sĩ
duy tâm, chúng tôi bao giờ cũng chủ trương “nghệ thuật là một sản vật của sự
sinh hoạt xã hội” (l'art est un produit de la vie sociale), những trạng thái
sinh hoạt giữa xã hội phản chiếu vào trong tâm trí người ta, sinh vui, sinh
buồn, sinh giận, sinh tiếc, sinh chán, sinh tham... Nghệ thuật sắp đặt những
tình cảm ấy cho có hệ thống rồi diễn ra thành những hình ảnh thiết thực hoặc
bằng lời nói hoặc bằng câu văn, bằng âm điệu, bằng vận động (như nhảy múa) hoặc
nhiều cách kiểu khác có hình thái rõ ràng như kiến trúc, đắp tượng v.v...
Cho nên người ta thường
nói: “Nghệ thuật là một phương pháp để xã hội hóa tình cảm” (un moyen de
socialisation du sentiment). Ông Tolstoi trong bản sách “Nghệ thuật là gì?”
(Qu'est ce que l'art?” giải thích: Nghệ thuật là một cái phương pháp truyền
nhiễm về tình cảm” (un moyen de contangion émotive).
Nghệ thuật xã hội hóa
tình cảm của loài người, lại đem cái tình cảm ấy mà truyền nhiễm lại cho loài
người; như thế là cái phát nguyên của nghệ thuật là ở trong xã hội mà cái cứu
cánh của nó cũng ở trong xã hội. Ðặt nghệ thuật ra ngoài xã hội và nhân sinh, cho
nghệ thuật có tính chất thiêng liêng, thần bí, cao thượng là ngụy biện, là phi
lý, là vin lối ông Thiếu Sơn, là gian trá. Vì sao tôi dám gọi là gian trá, tôi
sẽ nói ở đoạn sau.
II. “Nghệ Thuật vị Nhân
Sinh” với văn sĩ Tây Phương.- Ông Thiếu Sơn nói “nghệ thuật vị nhân sinh”
(l'art pour la vie) ở nước ta là do cái ảnh hưởng của Nho giáo. Ông lại cho
rằng hầu hết các người ngoài mà nhất là các người ở Tây phương đều chủ trương
lấy nghệ thuật làm cứu cánh cho nghệ thuật.
Ấy lại là một cái nói
liều nữa. Tôi thiết tưởng khi quyết đoán một điều gì ông cũng cần xem xét cho
thận trọng chứ! Ai bảo ông hầu hết các nước ngoài đều chủ trương lấy nghệ thuật
làm cứu cánh cho nghệ thuật?
Tôi muốn đưa đây một ít
chứng cớ mà tôi đã vội vàng sưu tầm để ông thấy rõ các nhà văn sĩ Tây Phương
người ta vẫn chủ trương lấy nghệ thuật làm cứu cánh cho nhân sinh.
Taine, trong bản sách
triết lý của nghệ thuật (La philosophie de l'art) nói rằng: “Nhà nghệ sĩ với
quần chúng là một, nhà nghệ sĩ không thể là hạng người biệt lập”.
Diderot bảo chúng ta
rằng: “Nghệ thuật phải có cái nhiệm vụ ca tụng những công nghiệp lớn lao, tốt
đẹp, bệnh vực cái lẽ phải, công kích sự đồi bại, chống chọi với đứa hung bạo”
Trong bản sách “Chúng ta
phải làm thế nào?” (Que devons-nous faire?) Tolstoi nói: “Loài người đương gặp
biết bao nhiêu sự khổ sở, đau đớn rất tội nghiệp, ai có thời giờ đâu ngao du
đùa bỡn. Nhà nghệ sĩ hay là nhà tư tưởng không bao giờ ngồi trên đỉnh núi thần
tiên, họ phải luôn luôn ở trong cảnh hoạt động, chan chứa cảm tình. Họ phải chỉ
cho loài người thấy con đường giải thoát những sự khốn khổ ngày nay và tìm ra
những cái tốt đẹp mới mẻ hơn.”
Tôi muốn để nguyên một
câu chữ Tây mà tôi không dịch, sợ mất cái ý nghĩa hay của nó đi:
“Le vrai art est
l'expression de la connessance de la mission et du vrai bien de toute les
hommes (xem quyển Vie de Tolstoi của R. Rolland).
Thế là cái nghệ thuật
chân chính là cái nghệ thuật vị nhân sinh rồi đấy, ông Thiếu Sơn đã thấy chưa?
Còn biết bao nhiêu nhà
nghệ thuật như Dickens, Dostolevsky, Millet, Hugo, Barbusse, R. Rolland v.v...
và tất cả những nghệ sĩ ở Nga bây giờ đều chủ trương lấy nghệ thuật mà phụng sự
cho nhân sinh.
Trên kia, tôi đã giải
thích cái quan hệ của nghệ thuật với nhân sinh và đã chỉ rõ thuyết “nghệ thuật
vị nhân sinh” không phải như ông Thiếu Sơn lầm tưởng cho là ảnh hưởng của Nho
giáo ở Ðông phương. Chính thuyết “nghệ thuật vị nhân sinh” các nghệ sĩ ở Âu Mỹ
đã nhiều lần đề xướng và cổ động rồi. Tỉ như nghệ thuật giỏi ở nước Nga bây
giờ, người ta chỉ biết nghệ thuật vị nhân sinh chứ không biết nghệ thuật vị
nghệ thuật vì người ta cho thuyết “nghệ thuật vị nghệ thuật” là tiêu biểu của
sự đồi bại cho nền văn hóa buốc-doa (bourgois) bao giờ.
III. Nghệ thuật vị nghệ
thuật trong nghệ thuật sử.- Quách Mạt Nhược, một văn sĩ về phái mới ở nước Tàu,
trong bài văn học do giai cấp đấu tranh có câu: “Nghệ thuật là gì? Nghệ thuật
là cái biểu hiện của nhân sinh”. Câu ấy thật đúng. Không biểu hiện được nhân
sinh thì không thành nghệ thuật nữa. Bao nhiêu sự thăng trầm biến chuyển trong
xã hội về kinh tế, về chính trị, đều gián tiếp hay trực tiếp ảnh hưởng vào nghệ
thuật.
Người đời xưa, hồi bộ
lạc đang thịnh hành, quân chủ đang bền chặt, nghệ thuật tất nhiên xu hướng về
mặt ca tụng những anh hùng hào kiệt, khuyến khích những việc thiện, bài trừ
những việc ác. Nhà nghệ sĩ bao giờ cũng tự đặt mình vào hạng “tiên giác”, đem
bao nhiêu tài ba để thức tỉnh loài người. Bao nhiêu sách sử, tranh vẽ, chạm trổ
đều diễn tả những công nghiệp oanh oanh liệt liệt của những vị anh hùng hào
kiệt tự ngàn xưa. Nghệ thuật hồi ấy rõ ràng là để phụng sự cho nhân sinh. Những
tác phẩm như Illiade, Oldyssée ở Tây phương, những sách “Tam quốc diễn nghĩa” ở
Tàu, “48 vị anh hùng” ở Nhật đều là những chứng cớ hiển nhiên của cái triều lưu
nghệ thuật vị nhân sinh của thời đại ấy.
Trước cuộc cách mạng
1789 ở Pháp, trong nghệ thuật giới Pháp lại phát sinh ra một cái thể thức mới
gọi là “style rococo”. “Style recoco” là cái phản ánh của chế độ phong kiến ở
Pháp đã bắt đầu trụy lạc. Nhà nghệ thuật dần dần xa hẳn quần chúng nên không
đem nghệ thuật để dẫn đạo hay giáo hóa quần chúng nữa.Họ mượn nghệ thuật để ca
tụng những sự xa hoa, đài các dâm dục. Các nghệ thuật ấy dầu không nói ra, ai
cũng thấy rõ là thứ nghệ thuật vị nghệ thuật mà thôi.
Cuộc cách mạng 1789 nổi
lên, trong nghệ thuật giới tự nhiên có vô số nghệ sĩ mới ra đời. Tự mình lấy
cái trách nhiệm tiên khu cho phong trào, mượn nghệ thuật làm lợi khí để khuyến
khích quần chúng vào con đường mới, bao nhiêu tác phẩm của Voltaire, Rousseau,
Montesquieu, Diderot, David v.v... đều tiêm nhiễm những tư tưởng đem nghệ thuật
mà phụng sự cho nhân sinh. Nhà nghệ sĩ tài vừa kiêm một tay chiến sĩ giỏi.
Rồi qua thế kỷ thứ XX,
sự phát triển của chế độ tư bản đã đến đoạn cuối cùng. Nghệ thuật đồng chịu ảnh
hưởng ấy, nên mất hẳn cái tính chất “vị nhân sinh”. Không biết bao nhiêu là xu
hướng mới ra đời: nào impressionnisme, néoimprissionnisme, futurisme, cubisme,
v.v... những cái “isme” cũ kéo dây nhau xuất hiện ra rồi lại cứ kéo dây nhau mà
chết, không cái nào thành hình cái nào.
Nghệ thuật dần dần xu
hướng về mặt thần bí, huyền hoặc, v.v... Nhà nghệ thuật chẳng những không khai
sáng quần chúng, lại trở lại mê hoặc quần chúng. Nhà nghệ thuật hóa ra một
người thù của quần chúng. Ông Léon Tolstoi cho là bọn forbans de l'art thật
đáng kiếp.
Bên cái nền nghệ thuật
phản nhân sinh, phản tiến hóa ấy, ngày nay chúng ta đã thấy nhóm lên những nền
nghệ thuật mới, tự lấy cái trách nhiệm diễn tả tình cảm, tư tưởng của quần
chúng và đề cao sự sinh hoạt của xã hội về tất cả mọi phương diện vật chất và tinh
thần.
Những kiện tướng trong
phái nghệ sĩ mới ấy như Gorky ở Nga, R.Rolland ở Pháp, Upton Sinclair ở Mỹ
v.v... đều được công chúng hoan nghênh một cách đặc biệt.
Ông Thiếu Sơn xem thế
cũng đủ thấy cái nghệ thuật vị nghệ thuật phát sinh ra trong những hồi đồi bại
của xã hội loài người. Còn những hồi tiến bộ thì người ta bao giờ cũng chủ
trương lấy nghệ thuật làm cứu cánh cho nhân sinh.
Ông Thiếu Sơn lại thấy
rằng những nghệ sĩ nào tán thành cho thuyết “nghệ thuật vị nghệ thuật” đều đi
trái hẳn con đường tiến hóa của nhân loại.
IV. Giá trị những tác
phẩm của phái nghệ thuật vị nghệ thuật.- Trong bài “Nghệ thuật với đời người”
đăng ở T.T.T.B số 41, ông Thiếu Sơn đứng về phương diện nhà nghệ thuật bảo
chúng ta rằng:
“Các ông muốn cải tạo xã
hội để tô điểm cho sự sống của loài người. Tôi không biết cải tạo xã hội là cái
gì, nhưng sự sống của tôi, tôi không cần các ông phải tô điểm. Tự nó đã mãn
nguyện rồi! Nếu trong thiên hạ còn nhiều người biết yêu mến nghệ thuật, nhờ
thưởng thức những công trình của chúng tôi mà quên những nỗi nhỏ nhen. ti tiện
ở cõi đời, để sống chung với chúng tôi trong một cảnh thế giới đẹp đẽ hơn, cao
thượng hơn, thì chúng tôi há lại chẳng có công với xã hội loài người đó ư?”
Chỉ một câu tuyên bố này
cũng đủ đại biểu cho cái tâm lý thiển bạc mà tự đắc, ích kỷ mà phản động, duy
tâm mà lộn xộn của phái “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Dầu ông Thiếu Sơn và những
nhà “nghệ thuật vị nghệ thuật” không biết, hay không muốn biết, hay không dám
biết “cái sự cải tạo là cái gì?”, dầu ông Thiếu Sơn và phái “nghệ thuật vị nghệ
thuật” có cho cái sống của mình không cần ai phải tô điểm, “tự do đã mãn
nguyện” rồi, nhưng các ông ít nhất cũng phải tự hỏi vì sao các ông đã đến cái
chỗ “không cần ai tô điểm”, “đã mãn nguyện rồi” rồi chớ! Chẳng qua các ông ở
trong cái giai cấp dư dật rồi mới vỗ bụng mà nói những câu tự đắc ấy. Các ông
có ăn, có mặc, có ở, rồi thong thả mới ngâm vịnh chuyện trên mây trên mưa được
chớ!
Các ông chỉ ngắm vào
mình, tự cho là đẹp đẽ rồi nên mới bảo “không cần ai tô điểm”. Kỳ thật, xã hội
chứa chấp không biết bao nhiêu cái xấu xa nên hằng mong mỏi sự tô điểm luôn
luôn.
Các ông chỉ ngắm vào
mình, thấy được cái sướng của đời vật chất của các ông nó ăn nhịp với cái sướng
trong cái đời tinh thần, nên các ông kiêu hãnh “đã mãn nguyện rồi”. Kỳ thật, xã
hội nhận thấy không biết bao nhiêu là điều thiếu thốn nên chưa khi nào tự hào
là mãn nguyện cả.
Tóm lại, ộng thật là
hạng người ích kỷ quá, chỉ thấy có mình mà không thấy người. Vì thế cho nên cái
nghệ thuật của các ông nó chỉ ở trong những cái khuôn khổ nhỏ bé của từng cá
nhân chớ không bao giờ diễn đạt nổi cái tình cảm, cái ý chí, cái nguyện vọng
của một đại quần chúng giữa xã hội. Cái nghệ thuật của các ông là cái nghệ
thuật của thiểu số. Các ông chỉ chăm chú, tìm kiếm, bơi xới những cái khúc mắc,
cái bí ẩn trong quả tim non của mấy cô gái ngây thơ đa cảm, hay tấm lòng riêng
mấy cậu con trai lịch lãm đa tình. Rồi các ông viết ra những pho tiểu thuyết
dày hàng mấy trăm trang với những cái tiêu đề đẹp đẽ, nào là tâm lý tiểu
thuyết, nào là ái tình tiểu thuyết, nào là cảnh thế tiểu thuyết. Sách ra đời,
cả một giai cấp đủ ăn đủ mặc, sau những cuộc vui chơi, trong những giờ nhàn
rỗi, a vào mà mua mà đọc, rồi mặc sức mà khen mà tán, mà phẩm bình, mà bắt
chước những người trong chuyện cũng ngây thơ, cũng mơ mộng, cũng yêu đời, cũng
vui đời v.v... Do đó các ông hô to lên rằng: “Các ông có công với xã hội, cái
nghệ thuật của các ông là có giá trị, là hữu ích đấy chứ, vì nó là món đồ giải
trí cho các tiểu thơ trong khuê các sau những giờ điểm trang”. Câu nói của bác
sĩ Trần tuy cay chua mà thật đúng.
V. Vài lời chung cáo.-
Giữa cuộc phân tranh của xã hội, trước những vấn đề sống còn của thời đại, nhân
loại đang mong mỏi, về phương diện tinh thần, một hạng nghệ sĩ biết diễn dịch
được cái nỗi lòng của họ; làm sao mà những sự đau thương, sự mong mỏi, sự buồn
giận, sự vui sướng trong tâm khảm họ đều vẽ vời thành những bức tranh linh hoạt
chan chứa cảm tình. Nhà văn sĩ Gorky đã trở nên “một người yêu” của cả thế giới
là nhờ thế.
Trái lại, ai lấy nghệ
thuật làm món “chơi riêng”, lấy nghệ thuật làm nghệ thuật, lấy nghệ thuật làm
bùa mê người, đều là vô tâm hay hữu ý đã nối giáo cho những cái lực lượng phản
tiến hóa. Hạng nghệ sĩ ấy, xin lỗi ông Thiếu Sơn là hạng nghệ sĩ gian trá, hạng
nghệ sĩ quái quỉ vậy. Những tác phẩm của họ rồi sẽ theo với những cái chế độ xã
hội hủ bại mà bị đào thải đi vậy.
(Ðời Mới - 1935)
Ðối với chúng ta ngày hôm nay vấn đề “Nghệ thuật vị nghệ
thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” không phải là một vấn đề để bàn cãi nữa. Vì,
cái nguy hiểm, cái tệ hại nhất cũng đã xảy ra rồi- nó - chính quan niệm một
chiều khi cho rằng “nghệ thuật vị nhân sinh” đã làm lợi khí tuyên truyền cho
“chủ nghĩa thực dụng” dựa trên “chủ thuyết duy vật” công kích mạnh vào “chủ
thuyết duy tâm”. Trường phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” đã bị văn học khối Cộng
Sản gán cho danh xưng “văn chương tư sản”; mà một khi đã là nghệ sĩ thuộc
trường phái nầy, tất nhiên bị ghép ngay vào “hàng ngũ đối lập- phản động- ủy
mị- lãng mạn- ru ngủ lòng chiến đấu- là sức cản trong ý thức đấu tranh giai cấp,
hại dân hại nước...”
Nói như vậy, không có nghĩa ngày hôm nay khi chúng ta phê
bình văn học chủ nghĩa xã hội là chấp nhận trường phái “nghệ thuật vị nghệ
thuật” để mạnh dạn bài bác trường phái kia! Hoàn toàn không thể có điều này, mà
là sự kết hợp thật sít sao cả hai quan niệm nhằm tạo cho mỗi chúng ta có một
tầm nhìn rộng hơn, sâu hơn trong mọi phân tích phê bình. Lợi thế của chúng ta ở
giai đoạn hiện tại, là có quyền kết hợp, có quyền lừa lọc những cái phi lý đễ
còn lại những cái hữu lý giúp ích cho cuộc sống. Không như ngày xưa giữa “A” và
“B” chỉ được chọn một. Ðã chọn “A” tức là “A” phải đúng, còn “B” phải bị loại
bỏ- có nghĩa “B” hoàn toàn sai (?).
Tóm lại, “nghệ thuật vị nghệ thuật”, hay “nghệ thuật vị
nhân sinh”, hai quan niệm nầy cái nào là đúng?
Ông cha ta thường nói “Có thực mới vực được đạo”, hoặc
“Có bột mới gọt nên hồ”, điều này xét ra không thể sai, nhưng bảo hoàn toàn
đúng thì không thể được! Trong thực tế cuộc sống đã có quá nhiều thành công,
chứng minh cho sự sai lầm về nghĩa đen trong “tục ngữ” như vừa dẫn trên qua các
việc làm “từ thiện” hoặc trong lĩnh vực “tôn giáo, tín ngưỡng”, và cũng đã có
những thành công trên đường đời khi mức khởi sự chỉ là con số không!...
HỒ QUÂN