nhưng cuối cùng các nhà nghiên cứu bằng tài
liệu tìm thấy, không một ai có thể chứng minh lạp luận của mình là đúng, là
thuyết phục. Nhìn lại các hoạt động của những người yên nước ở hải ngoại của thời
gian này thì chỉ có một mình ông Tăng Bạc Hổ nhân vật có những tương đồng với nội
dung của bài ca qua việc ông đã phục vụ cho quân đội Nhật đánh thắng được quân
Nga (Đế Quốc Nga), khải hoàn trở về được Nhật Hoàng ban thưởng rượu…
Đầu thế kỷ XX, phong trào Duy Tân được hầu hết
các nhân sĩ Việt Nam trong nước cũng như đang sống ở ngoài nước đều có chung một
tấm lòng là phải bằng mọi cách “đưa dân tộc mình thoát khỏi ách đô hộ ngoại
bang, dựng lại nền độc lập dân tộc, bảo đảm sự tự do cho người dân”. Đáng lý ra
là triều Đại Nhà Nguyễn phải làm điều này, nhưng các vua đã bất lực vì họ hoàn
toàn bị người Pháp khống chế với chính sách đô hộ khắc nghiệt của họ.
Trước sự phát triển mọi mặt mà trong đó sự
phát triển về tư tưởng tự do dân chủ của các triết gia phương Đông cũng như
phương Tây đang làm cho người dân Việt Nam nhận ra phải có sự thay đổi về cách
suy nghĩ mà qua “cửa Khổng sân Trình” đã trang bị cho họ có được trước đó. Để
bù đắp lại sự phá sản của tư tưởng xưa cũ nầy, các người yêu trướng trong và
ngoài Việt Nam đã đồng tình hải tìm ra phương hướng mới. Và họ đã chọn phương
cách nâng cao dân trí là phương cách tốt nhất để giúp người dân có ý thức về
dân tộc, về tự do dân chủ, về dân quyền, về nhân quyền... rồi từ sự hiểu biết nầy
sẽ hướng dẫn họ đến mọi hành động trong cách đánh đuổi ngoại xâm thì dễ dàng
hơn.
Việc mở mang dân trí tại thời điểm nầy được
thể hiện rõ ràng nhất là sự xuất hiện của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục ngay tại phố
Hàng Đào, Hà Nội (xin xem thêm bài Đông Kinh Nghĩa Thục trong sách Nhà Nguyễn
nhìn từ những sự kiện của cùng ngươi viết). Các người phụ trách giảng dạy hướng
dẫn học sinh bỏ lối học từ chương, thay vào đó là dạy cho học sinh biết cổ xúy những
tư tưởng yêu nước, thương nòi... giành lại quyền độc lập tự do dân chủ bị mất
vào tay ngoại bang. Những người sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục đã nhìn thấy sự
phát triển mạnh của phong trào Duy Tân ở Nhật (từng là nước phong kiến phương
Đông không hơn gì Việt Nam) đã biết áp dụng những tư tưởng mới do “phong trào
Duy Tân” của họ khởi xướng, rốt cuộc họ đã đánh bại được một cường quốc lớn mạnh
ở phương Tây như Đế Quốc Nga,
Như thế, mục đích chính của Đông Kinh Nghĩa
Thục là nhằm giúp mọi người được nâng cao dân trí, họ trang bị tinh thần yêu nước
của người dân bằng cách thông qua những tài liệu được dịch từ các phong trào
“giành độc lập tự do” thành công tại nước ngoài. Bài “Á Tế Á” là một trong những
tài liệu được đem giảng dạy tại trường này. Trên thực tế thì bài ca A Tế Á
không chỉ xuất hiện tại Đông Kinh Nghĩa Thục mà thôi, nó xuất hiện trên khắp 3
miền đất nước, nhất là tại Nam Kỳ, nơi mà Pháp đã xem là đất thuộc địa của
mình.
Bài ca Á Tế Á có nội dung như sau:
Á Tế Á ca:
(Từ Nhật Bản Ký Hồi
Thống Sứ Phủ)
Á Tế Á Năm Châu là bậc
nhất,
Người nhiều hơn mà đất cũng
rộng hơn.
Cuộc đời mở hội doanh hoàn
Anh hùng bốn bể giang san
một nhà.
Gẫm từ thuở Âu La (Âu Lạc) tìm đất,
Vượt Chi Na (China) qua Nhật đến Triều Tiên.
Xiêm La, Ấn Độ gần liền,
Cao Miên, Đại Việt thông miền Ai Lao.
Thịt một miếng trăm dao xâu xé,
Chiếc kim âu chẳng mẻ cũng khôn lành.
Tôi con Pháp, tớ thầy Anh,
Nín hơi Đại Đức, nép mình Cường Nga.
Gương Ấn Độ còn xa đâu đó,
Chẳng máu đào, nhưng cũng họ da vàng
Mênh mông một dải Đông Dương,
Nước non quanh quất trông càng thêm đau.
***
Cờ tự lập đứng đầu phất trước,
Nhật Bản kia vốn nước đồng văn,
Thái Đông nổi hiệu “duy tân”,
Nhật Hoàng là đấng anh quân ai bì?
Dòng Thần Vũ riêng về một họ,
Vùng Phù Tang soi tỏ góc trời,
Kể đời trăm hai mươi hai,
Năm hai nghìn lẻ năm mươi có thừa.
Sẵn cơ hội trời đưa lại đó,
Chốn kinh thành Thần Hộ mới dời sang.
Dẹp Mạc Phủ, bỏ phiên bang,
Đổi dòng chính sóc, thay đường y quan.
Khắp trong nước dân đoàn xã hội,
Nhà học đường đã ngoại ba muôn.
Việc kỹ nghệ, việc bán buôn,
Nơi lò hấp bát, nơi khuôn đúc đồng.
Chè, lụa, tơ, gai, bông, nhung, vũ,
Mọi đồ sơn, vân mẫu, pha lê.
Dao với quạt, tán với xe,
Đủ mùi hải lục, hợp nghề nông thương.
Bốn lăm triệu kể lương dân số,
Các sắc quân ước độ triệu người.
Chu vi mặt đất rộng dài,
Tính vuông pháp lý bốn mươi vạn thừa.
Bốn mốt huyện năm xưa mới đổi,
Đầu Nại Xuyên mà cuối Lộc Nhi.
Đông Kinh ba phủ cận kỳ,
Ngoài thì Đại Bản, trong thì kinh đô.
Tỉnh Bắc Hải dư đồ quanh bể,
Huyện Xung Thằng chưa kể đất Lưu Cầu.
Gò Đối Mã bốn bể sâu,
Nghiêm Đồng đặt súng, Trúc Phu đỗ tàu.
Nhà dây thép đâu đâu cũng đặt,
Truyền thông thương khắp mặt ngoại dương.
Kìa thiết lộ, nọ ngân hàng,
Đăng đàn, báo quán, ngổn ngang phụ đầu.
Cuộc biến pháp năm đầu Minh Trị,
Ba mươi năm dân trí mở mang,
Chữ Hán tự, chữ Tây dương,
Mọi bài diễn thuyết, các phường chuyên môn.
Đất Đại Bản mở đồn đúc súng,
Xưởng Đông Kinh riêng cũng một toà.
Trường Kỳ thuyền cục mấy nhà,
Dã Tân, Tu Hạ ấy là hải quân.
Tàu với súng trăm phần chấn chỉnh,
Lại ngư lôi bác đĩnh ai tày.
Quan quân luyện tập đêm ngày,
Mọi nghề so với Thái Tây kém gì.
Đội mã bộ, lục sư các trấn.
Từ Hà Di đến tận Tát Ma.
Tám đạo rộng, bốn gò xa,
Phú sơn cao ngất, Tỳ Bà trong veo.
Tướng, tá, uý, cũng theo Tây lệ,
Đủ vương binh, pháo vệ chỉnh tề,
Đồng bào nghĩa khí gớm ghê,
Cái thù nô lệ, ắt thề giả xong.
Năm Giáp Ngọ đùng đùng sóng gió,
Vượt quân sang thẳng trỏ Đại Hàn.
Quân Lục Áo, tướng Thái Sơn,
Ra tay cho biết cái gan anh hùng.
Đông tam tỉnh thu trong tay áo,
Bọn trắng da ngơ ngáo giật mình,
Cuộc hoà đâu bất thình lình,
Chủ trương này dễ Nga đình vẽ khôn.
Bụng ái quốc ghê hồn Nhật Bản,
Giận xung quan khôn cản nghĩa đồng cừu.
Đã toan trở súng quay tàu,
Y Đằng can khéo mưu sâu vãn hồi.
Nhận bồi khoản Bành, Đài nhượng địa,
Trong mười năm rồi sẽ chịu nhau.
Nga kia nước lớn lại giàu,
Bên giường giấc ngáy, dễ hầu chịu yên,
Hàn với Mãn lợi quyền thu sạch,
Xe Nhĩ Tân, tàu lạch Sâm Uy.
Cõi Đông đương cuộc an nguy,
Có ta, ta phải phù trì chúng ta.
Việc khai hấn chắc là quyết liệt,
Đất Á Đông thấy huyết phen này.
Giáp Thìn trong tháng Chạp tây,
Chiến thư hai nước đợi ngày giao tuy.
Trận thứ nhất Cao Ly lừng tiếng,
Khắp toàn cầu muôn miệng đều khen.
Sa trường xung đột mấy phen,
Ngọn cờ Áp Lục, tiếng kèn Liêu Đông.
Châu Lữ Thuận mơ màng khói bạc,
Thành Phụng Thiên ngơ ngác non xanh.
Hải quân một trận tan tành,
Thái Hoa cắt núi, Đông Thanh xẻ đường.
Sức hùng vũ ai đương lại được,
May điều đình có nước Hoa Kỳ.
Khéo điều hoà cuộc giải vi,
Nếu không Bỉ Đắc còn đâu là đời.
Hội vạn quốc diễn bài thương nghị,
Chấu mới voi chuyện cũng nực cười.
Xem trong hoà khoản mười hai,
Bề nào Nga cũng chịu lui trăm phần.
Cuộc tang hải khuất thân từng lúc,
Áng liệt cường nay cũng chen vai.
Khen thay Nhật Bản anh tài,
Từ nay danh dự còn dài về sau.
***
Ngồi mà nghĩ thêm sầu lại tủi,
Nước Nam mình gặp buổi truân chuyên.
Dã man quen thói ngu hèn,
Cũng như Minh Trị dĩ tiền khác đâu.
Từ giống khác mượn màu bảo hộ,
Mưu hùm tinh, lừa lũ voi già.
Non sông thẹn với nước nhà,
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu.
Việc dây thép, việc tàu, việc pháo,
Việc luyện binh, việc giáo học trường,
Việc công nghệ, việc nông thương,
Việc khai mỏ khoáng, việc đường hoả xa.
Giữ các việc chẳng qua người nước,
Kẻ chức bồi, người tước culi.
Thông ngôn kí lục chi chi,
Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang.
Các thức thuế các làng thêm mãi,
Hết đinh điền rồi lại trâu bò.
Thuế chó cũi, thuế lợn bò,
Thuế diêm, thuế tửu, thuế đò, thuế xe.
Thuế các chợ, thuế trà, thuế thuốc,
Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn.
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền,
Thuế rừng tre gỗ, thuế thuyền bán buôn.
Thuế gò, thuế bãi, thuế cồn,
Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn.
Thuế dầu mật, thuế đàn đĩ thoã,
Thuế gạo rau, thuế lúa, thuế bông.
Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng,
Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kỳ.
Các thức thuế kể chi cho xiết,
Thuế xia kia mới thật lạ lùng,
Làm cho thập thất cửu không,
Làm cho xơ xác, khốn cùng chưa thôi.
Lại nghe nỗi Lào Cai, Yên Bái,
So muôn người như giải lũ tù.
Ăn cho ngày độ vài xu,
Việc làm gian khổ, công phu lạ lùng.
Độc thay phong chướng nghìn trùng,
Nước sâu quẳng xác, hang cùng chất xương.
Nỗi diệt giống bề lo bề sợ,
Người giống ta biết có còn không?
Nói ra sởn gáy động lòng,
Cha con khóc lóc, vợ chồng thở than.
Cũng có lúc bầm gan tím ruột,
Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.
Cũng xương cũng thịt cũng da,
Cùng hòn máu đỏ, giống nhà Lạc Long.
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Bốn mươi năm nhơ nhuốc lầm than.
Thương ôi! Bách Việt giang san,
Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.
Hồn mê mẩn tỉnh chưa, chưa tỉnh?
Anh em ta phải tính nhường sao.
Đôi bên, bên nọ, bên cừu,
Họ khôn phải học, cừu sâu phải đền.
Việc tân học phải đem dựng nước,
Hội dân đoàn, cả nước với nhau.
Sự buôn phải lấy làm đầu.
Mọi nghề cũng ghé địa cầu một vai.
Bây giờ kể còn dài chưa hết,
Chữ tự do xin kết bên lòng.
Gương Nhật Bản đất Á Đông,
Giống ta, ta phải soi trông kẻo nhầm.
Bốn mươi triệu đồng tâm nhất đức,
Mãnh hổ kia đem sức với quần dương.
Hiệu cờ nổi chữ tự cường,
Thay bầy nô lệ làm phường văn minh.
Kìa thuở trước như Anh, Pháp, Đức,
Cũng chẳng qua cùng cực tắc thông,
Hoạ may trời có chiều lòng,
Việt Nam dựng lại, phương Đông có mình.
Thân phiêu bạt đã đành vô lại,
Bấy nhiêu năm Thượng Hải, Hoành Tân.
Chinh Nga nhân lúc hoàn quân,
Tủi mình bô bá, theo chân khải hoàn.
Bưng chén rượu ân ban hạ tiệp,
Gạt hàng châu khép nép quỳ tâu,
Thiên Nam mù mịt ngàn dâu,
Gió Tây như thồi dạ sầu năm canh.
Biết bao nỗi bất bình khôn giải.
Mượn bút hoa mà cải quốc âm,
Thân giàn bao quản cát lầm,
Khuyên ai đúc chữ đồng tâm sau này.
1906