Trang Văn Học & Lịch Sử Việt Nam
NHỮNG HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC CỦA NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI - Bài 9 Cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt đưa về nước

Trong “Tự Phê, Tự Phán”, cụ Phan viết việc này như sau:
“…Mười hai giờ trưa ngày 11 tháng 5 chuyến tàu hỏa chạy từ Hàng Châu vào ga Thượng Hải. Tôi gửi hành lý ở kho nhà ga rồi xách một túi nhỏ ra khỏi nhà ga. Thấy một chiếc xe hơi đậu ở cửa ga, quanh xe có mấy người Âu Tây. Một người nói với tôi bằng tiếng Quan Thoại (Trung Hoa):
- Trưa cơ xế hấn hảo, Xênh xiên sâng sang xê (Xe nầy tốt, Mời tiên sinh lên xe).
Tôi nhã nhặn từ chối, thì phía sau lưng tôi có mấy người xốc tới đẩy tôi vào trong xe. Xe chạy ra bến tàu. Một tàu binh Pháp chờ sẵn ở đây. Tôi bị đưa xuống tàu. Từ lúc đó, tôi là người tù của Pháp...”.
Sau khi bắt được cụ Phan từ Trung Quốc đưa về nước, giam ở Hỏa Lò, Pháp giao cho Hội Đồng Đề Hình định ngày xét xử.  
Ngày 25/11/1925 (Ất Sửu), Hội Đồng Đề Hình gồm Giám Dốc Brida làm Chủ Tọa, Đốc Lý Hà Nội Dupuy và Đại Úy Bollie làm Phụ Thẩm, Boyer làm Bồi Thẩm, Armoux Patrick làm Lục Sự. Hội Đồng Đề Hình nầy để cử 2 Luật Sư Bona (ở Hà Nội) và Laire (ở Hải Phòng) làm Luật Sư biện hộ cho bị cáo Phan Bội Châu.
Tuy bị Hội Đồng Đề Hình buộc tội rất gắt gao, cụ Phan vẫn điềm tỉnh, ung dung đối đáp lại những lời buộc tội một cách rõ ràng, mạch lạc, chứng minh những việc mình đã làm trong thời gian vừa qua là chính đại, là hợp lý... NHưng rồi cuối cùng Tòa Đề Hình Pháp lại một lần nữa kết án cụ bị “Tử Hình” (trước đây cụ và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để bị kết án “tử hình vắng mặt”).
Được tin nầy, các phòng trào đòi xin ân xá cho cụ Phan Bội Châu đồng lượt rầm rộ nổi lên. Hội Thanh Niên Việt Nam in 4000 tờ truyền đơn gởi đến các cơ quan của nhà cầm quyền Pháp, các Sứ Thần nhiều nước đang có mặt tại Paris, các tổ chức Quốc Tế yêu cầu các nơi này can thiệp. Hội Việt Kiều tại Pháp họp đại hội đởi điện tín kháng nghị tới những cơ quan có liên hệ đến vụ án Phan Bội Châu phải hủy án “tử hình”. Trước sự công phẫn của mọi người, viên Toàn Quyền Đông Dương Varenne sau khi đề nghị về Pháp, ngày 24/12/1925 đã quyết định ân xá cho cụ Phan Bội Châu, nhưng cụ Phan vẫn phải bị đưa về Huế để an trí (Varenne muốn giam lỏng cụ Phan ở Huế).
Thời gian bị án trí tại Huế, cụ bị mật thám Pháp bám sát, không thể hoạt động được gì, mặc dầu cụ đã âm thầm nhận chức “cố vấn” cho Việt Nam Quốc Dân Đảng (tổ chức nầy có lần tổ chức cụ Phan trốn thoát ra ngoại quốc, nhưng bất thành vì màng lưới mật thám Pháp bao vây dày đặc quanh vùng Bến Ngự (Huế).
Trong “Tự Phán, Tự Phê”, cụ Phan Bội Châu, viết:
“...Tôi bị bắt ở nước ngoài đem về, bị giam trong ngục; nhờ quốc dân quá thương nên mới giữ được mạng sống tới nay. Tôi xa nước, xa đồng bào mấy chục năm, nay may được cùng nhau nhắc nhở chuyện xưa. Có người yêu tôi, có người ghết tôi, có người mong đợi ở tôi, nhưng dù biết tôi hay không biết tôi, ai cũng muốn biết rõ đầu đuôi cái lịch sử của Phan Bội Châu này.
Than Ôi!... Lịch sử của tôi là lịch sử của trăm thất bại mà không có một thành công. Tôi bôn ba gần ba mươi năm, làm cho cả nước liên lụy chịu tai vạ, làm cho nhiều đồng bào bị tù đày, nhiều đồng chí bị giết. Nhiều đêm tỉnh giấc, tôi chỉ có thể ngẩng mặt nhìn trời mà chỷ nước mắt. Hơn năm mươi năm lần lữa, nghĩ mà mà hổ thẹn với râu mày.
Nhưng xưa nay những công cuộc thay cũ, đổi mới không mấy khi không thất bại mà thành công ngay được. Ngay như nước Pháp khi xây dựng nền dân chủ cộng hòa cũng phải trải qua ba, bốn phen xáo trộn mới thành. Chúng ta nên tránh bánh xe đã đổ trước, bỏ con đường thất bại, , tìm đường đi đến thành công, ta phải tìm cái Sống trong muôn ngàn cái Chết, phải cẩn mật cho việc mình làm không bị vỡ lở, phải đồng tâm, đồng đức thì nợ máu mới rửa được. Một ngày kia quốc dân đi đến thành công thì lịch sử Phan Bội Châu lại không phải là cái bánh xe đi trước hay sao.
Các bạn thân nhiều người bảo tôi trước khi chết phải làm cho xong tập lịch sử đời tôi nên tôi vâng mệnh viết ra thiên nầy, gọi là ‘Tự Phán’...”.
Năm 1940 (Canh Thìn), khi Nhật tiến quân vào Đông Dương thay thế dần cho thực dân Pháp đang chiếm đóng ở xứ này. Đối với Việt Nam, đây là thời cơ tốt nhất để thực hiện cuộc “cách mạng dân tộc”, nhưng tiếc thay người lãnh đạo tài giỏi như cụ Phan không thể giúp gì được nữa... Tuổi già sức yếu, cụ Phan qua đởi ngày 29/10/1940 (Canh Thìn), hưởng thọ 74 tuổi...
Trước giờ lâm chung, cụ Phan Bội Châu đã cố đọc lên một bài khẩu khí, có những câu như:
“...Nay đang lúc tử thần chờ trước cửa
Có vài lời ghi nhớ về sau
Chúc phường hậu tử tiến mau...”
Những nhân vật yêu nước nổi tiếng có hoạt động liên quan đến cụ Phan Bội Châu...
Trước nhất có thể kể là nhân vật từ hoạt động chống Pháp rồi sau đó trở thành người làm việc cho Pháp:
*.- 1. Lâm Đức Thụ (林德樹), tên thật là Nguyễn Công Viễn (阮公遠), biệt danh là Trương Béo, có bí danh Hoàng Chấn Đông. Ông sinh năm 1890 tại Thái Bình, là con trai của Tù Tài Nguyễn Hữu Đàn, và là cháu nội của nhà nho yêu nước Nguyễn Mậu Kiến. Lâm Đức Thụ là người thông minh, học giỏi, đi thi đỗ đầu xứ nên được gọi là Đầu Xứ Viễn.
Theo “Ho Chi Minh: A Life” (Hyperion, 2000, tr. 206), tác giả William J Duiker có Việt Lâm Đức Thụ là người hoạt động cách mạng chống Pháp, rồi trở thành chỉ điểm cho mật thám Pháp. Theo sách “Mối Liên Hệ Giữa Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc, 1924-1925” giới thiệu tài liệu của Vĩnh Trinh tr. 242, thì Lâm Đức Thụ là người được cho là đã bán đứng cụ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp. Còn theo “Tạo Chí Đông Nam Á Tung Hoành”, số tháng 12 năm 2001 (Xuất bản tại Nam Ninh, Trung Quốc), tác giả Hoàng Tranh (Phó Giáo Sư, nguyên Phó Viện Trưởng Viện Khoa Học Xã Hội Quảng Tây, Trung Quốc) viết ở tạp chí nầy, Lâm Đức Thụ là người mai mối Tăng Tuyết Minh cho Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1912, Lâm Đức Thụ gia nhập Việt Nam Quang Phục Hội của cụ Phan Bội Châu.
Năm 1923, vì bất đồng ý kiến với cách hoạt động của nhóm già (tư tưởng bảo thủ), Lâm Đước Thụ đã cùng một số thanh niên trẻ đầy nhiệt huyết chống Pháp như Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Giãng Khanh, Đặng Xuân Hồng... ly khai khỏi Việt Nam Quang Phục Hội, lập ra một đoàn thể cấp tiến gọi à Tâm Tâm Xã.
1925, Lâm Đức Thụ và một số đồng chí sáng lập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, tổ chức nầy thoát thai từ tổ chức Tâm Tâm Xã. Lâm Đức Thụ có một người vợ Trung Quốc tên Lý Huệ Quần (có sách ghi Lương Huệ Quần), ngôi nhà của Lý Huệ Quần ở đường Văn Minh, Quảng Châu, là nơi tụ tập thế hệ đầu tiên các hội viên của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội dùng để trú ngụ và huấn luyện lý thuyết cách mạng, công tác vận động quần chúng.
1947, Lâm Đức Thụ bị dân quân của Việt Minh giết tại quê hương của ông (làng Vũ Trung, huyện Kiến Xương, Thái Bình) vì cho rằng ông là người làm gián điệp cho Pháp.   
*.- 2. Hồ Học Lãm,
Sinh năm 1884, tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là con trai của Hồ Bá Trị và bà Trần Thị Trâm (bà Lụa). Hồ Bá Trị là nhà yêu nước, bị hy sinh trong trận chống phản loạn, lúc đó bà Lụa mới 25 tuổi. Bà Lụa không tái giá mà ở vậy nuôi hai con trai là Hồ Xuân Kiêm và Hồ Xuân Lan. Hồ Xuân Lan tức Hồ Học Lãm, lúc cha mất mới 2 tuổi, và hai anh em sống với mẹ. Bà Lụa là con gái của Tiến Sĩ Trần Hữu Dực (ông nầy trước làm Tri Phủ Vĩnh Tường, sau theo phong trào Cần Vương giúp Phan Đình Phùng trong cuộc khởi nghỉa ở Hương Khê. Ông đã từng cùng với chí sĩ Ngô Quảng sang Xiêm La mua súng cho nghĩa quân kháng Pháp). Ảnh hưởng dòng máu yêu nước chống Pháp, bà Lụa tham gia hoạt động trong phong trào Cần Vương (của Phan Đình Phùng) rồi Đông Du (của Phan Bội Châu), nhất là phong trào Đông Du được cụ Phan Bội Châu đặt cho tên là “Tiểu Trưng”. Bà Trần Thị Trâm thường đóng vai người bán lụa để hoạt động, nên có biệt danh là Bà Lụa. Bà Lụa còn là mẹ đỡ đầu của cô Chiêu Thanh tức Nguyễn Thị Thanh, chị ruột của Nguyễn Tất Thành.    
Hồ Học Lãm có người bác ruột là Hồ Bá Ôn làm qua Án Sát tỉnh Nam Định và đã hy sinh trong trận giữ thành Nam Định (Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ 2), ông được triều đình Huế tặng hàm Quang Lộc Tự Khanh, thờ ở đền Trung Nghĩa. Hồ Bá Ôn là cha của Hồ Bá Kiện (thành viên Hội Duy Tân của cụ Phan Bội Châu) và chính là ông nội của Hồ Tùng Mậu. Như thế Hồ Tùng Mậu là cháu gọi Hồ Học Lạm bằng chú họ (cha của Hồ Học Lãm là em của Hồ Bá Ôn).
Cha mất sớm nên việc giáo dục Hồ Học Lãm đều do bà Lụa đảm nhận. Năm 1908, hưởng ứng phong trào Đông Du, bà Lua cho Hồ Học Lãm sang Nhật du học. Tại Nhật ông được cụ Phan Bội Châu cho vào trường Võ Bị Chấn Vũ ở Tokyo. Tại trường nầy Hồ Học Lãm lấy tên là Hồ Hinh Sơn là bạn cùng lớp với Tưởng Giới Thạch. Sau một thời gian học tại đây, tất cả du học sinh trong phong trào Đông Du bị thực dân Pháp yêu cầu Nhật trục xuất, Hồ Học Lãm sang ngụ ở Bắc Kinh, rồi xin vào học tại trường Võ Bị Hoàng Phố cùng khóa với Tưởng Giới Thạch. Hồ Học Lãm tốt nghiệp tại trường nầy năm 1911.
Tốt nghiệp trường võ bị Hoàng Phố, Hồ Học Lãm trở thành sĩ quan cao cấp của quân đội Trung Quốc, ông tham gia cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) do Tôn Trung Sơn (lãnh tụ Trung Hoa Quốc Dân Đảng) lãnh đạo. Năm 1925, Tổng Thống Tôn Tung Sơn qua đời, hai năm sau (1927) Tưởng Giới Thạch làm cuộc binh biến thay đổi đường lối chính trị, Hồ Học Lãm vẫn được Tưởng nể trọng, được điều về Bộ Tổng Tham Mưu tại Nam Kinh – Giang Tô. Khi Hồ Tùng Mậu và các đồng chí thành lập An Nam Cộng Sản Đảng tại Hồng Kông, Hồ Học Lãm được mời tham gia, nhưng ông từ chối, vì dầu sao ông cũng đã là một người của Trung Hoa Dân Quốc (Quốc Dân Đảng Trung Hoa). Tuy bề ngoài từ chối tham gia, nhưng nhà ông là nơi tiếp nhận và là cơ sở đón tiếp các thanh niên yêu nước Việt Nam tụ họp như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Trịnh Đông Hải... sau đó là Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên...   
Năm 1936, ông tham gia tổ chức Việt Nam Độc Lập Vận Động Đồng Minh Hội của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và dùng tiền riêng để xuất bản một tạp chí chữ Hán lấy tên là Việt Thanh. Tờ Việt Thanh chỉ ra được 3, 4 số thì hết kinh phí để tiếp tục. Sau khi tổ chức của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để bị ngưng hoạt động, Hồ Học Lãm lại gia nhập vào Việt Nam Quang Phục Hội, giữ chức Ủy Viên Huấn Luyện.
Năm 1940, Hồ Học Lãm bị bệnh nặng phải vào bệnh viện Quế Lâm (Trung Quốc) để điều trị.
Cuối năm 1942, cuộc diện chính trị bị thay đổi (ảnh hưởng Thế Giới Chiến Tranh II), theo “Giọt Nước Trong Biển Cả”, Hoàng Văn Hoan viết rằng, Nguyễn Ái Quốc cho thành lập “Biện Sự Xứ Hải Ngoại” (Việt Minh thành lập tại Quế Lâm), Hồ Học Học Lãm được mới làm Chủ Nhiệm, Phạm Văn Đồng làm Phó Chủ Nhiệm. Tiếp theo Việt Minh cho lập “Hội Trung - Việt Văn Hóa Cách Mạng Đồng Chí”, Hồ Học Lãm và Phạm Văn Đồng đều được tham gia Ban Lý Sự với tư cách là Chánh, Phó Chủ Nhiệm.
Theo “Tự Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam” (tr.275), Hồ Học Lãm bị bệnh suy tim, hen suyển nặng, ông mất tại Quế Lâm ngày 8 tháng 3 năm Quý Mùi (tức 12/4/1943), hưởng thọ 60 tuổi.
*.- 3. Trương Bội Công

Ít có tài liệu viết về nhân vật Trương Bội Công, chỉ thấy ghi một cách tổng quát là ông ta sinh vào năm 1909. Sau vụ các lãnh đạo Việt Nam Quốc Đảng bị xử chém ở Yên Bái (1930), giai đoạn nầy phong trào Đông Du được cổ động mạnh tại Miền Bắc, Trương Bội Công sang đến Nam Kinh và gia nhập vào quân đội của Tưởng Giới Thạch.

Năm Canh Thìn (1940) Trương Bội Công được thăng lên thiếu tướng, dưới quyền của Tư Lệnh Đệ Tứ Chiến Khu (tướng Trương Phát Khuê) trong kế hoạch đưa quân Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch vào Việt Nam.

Năm Tân Tỵ (1941), Tướng Trương Phát Khuê giao cho Trương Bội Công và Hồ Học Lãm tìm mời tất cả những người Việt Nam yêu nước chống Pháp đang lưu vong tại Trung Quốc họp lại, rồi bổ nhiệm Trương Bội Công làm Tư Lệnh lớp học “đào tạo đặc biệt” những người này tại Quảng Tây (Ching HSis). Đây là thời gian có mặt những người Việt Nam đẵ theo Cộng Sản hoạt động như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng... cố lôi kéo Trương Bội Công về với phe họ. hời gian này những người Việt Nam theo Cộng Sản hoạt động rất mạnh tại vùng phía nam Trung Quốc như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp… cố lôi kéo Trương Bội Công về phe họ.

Năm Nhâm Ngọ (1942), sau khi tham gia thành lập “Việt Nam Giải Phóng Dân Tộc Hội” (tiền thân của Đồng Minh Hội), Trương Bội Công là người có “lập trường dân tộc” do đó, ông ta đã từ chối lời mời mọc của nhóm Việt Minh. Sau đó không nghe tin tức gì về Trương Bội Công nữa...

Sau năm Ất Dậu (1945) có tin cho rằng ông đã bị mất tích do bị thanh trừng (?), và cũng có tin cho rằng ông vẫn còn ở trong quân đội Trung Hoa Dân Quốc (?).

*.- 4. Vũ Hồng Khanh (武鴻卿)

Tên thật là Vũ Văn Giảng (武文講) hay Vũ Văn Giản (武文簡), sinh năm 1898 (Mậu Tuất) tại làng Thổ Tang, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Trước khi hoạt động cách mạng chống Pháp, Vũ Văn Giản (g) là một giáo làng, sống với nghề gõ đầu trẻ.

Đầu thập niên 1920, Vũ Văn Giản (g) theo lời vận động của Nguyễn Khắc Nhu gia nhập vào hoạt động chống Pháp trong phong trào “Việt Nam Dân Quốc” (越南民國). Đầu năm 1928, Việt Nam Dân Quốc sát nhập vào Việt Nam Quốc Dân Đảng (Nguyễn Thái Học), Vũ Văn Giản (g) trở thành một trong những yếu nhân của “đảng” nầy.

Sau vụ tên chủ mộ phu đồn diền người Pháp (Bazin) bị ám sát, nhiều cơ sở và đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng bị thực dân Pháp truy lùng, bắt bớ, khiến các lãnh tụ “đảng” buộc phải cho tiến hành gấp cuộc tổng khởi nghĩa, nhằm cứu các cơ sở của đảng đang bị Pháp truy lùng cũng như sẽ truy lùng khỏi bị tiêu diệt hay tan rã.

Tháng 5/1929, tại hội nghị Đức Hiệp, Vũ Văn Giản (g) được bổ sung vào ban lãnh đạo Trung Ương. Và, tại hội nghị Mỹ Xá bàn bạc việc Tổng Khởi Nghĩa, ông được giao nhiệm vụ cùng hai ông Nguyễn Văn Chấn, và Phạm Văn Tình chỉ huy các trận tấn công vào Kiến An và Hải Phòng.

Đầu tháng 2/1930, cuộc Tổng Khởi Nghĩa của Quốc Dân Đảng nổ ra nhiều nơi tại Miền Bắc, nhưng vì tin tức ngày giờ bị lộ và thực dân Pháp biết trước, nên việc nổi dậy chỉ còn xảy ra tại Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Phụ Dực, Vĩnh Bảo, chứ không thể theo dự định. Dĩ nhiên, do việc liên lạc giữa các nơi khởi nghĩa không thể thực hiện, thiếu vũ khí để chiến đấu, nên những nơi không thể nổi dậy thì không nói làm gì, còn những nơi đã nổi dậy không đủ sức cầm cự với quân Pháp khi chúng phản công, để rồi cuộc “tổng Khởi Nhĩa” bị tiêu diệt dần dần cho đến ngày 20/2/1930, Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học bị bắt tại Cổ Vịt (Hải Dương) thì coi như cuộc Tổng Khởi Nghĩa (Yên Bái) hoàn toàn thất bại (Ngày 17/6/1930, Nguyễn Thái Học và 12 Đồng Chí của ông bị xử chém tại pháp trường Yên Bái).

Nhiều yếu nhân của Việt Nam Quóc Dân Đảng bị Pháp bắt sau cuộc tổng khởi nghĩa bị thất bại, riêng Vũ Văn Giản (g) thoát được, và ngày 20/6/1930 (sau vụ pháp trường Yên Bái 3 ngày), ông trốn sang Côn Minh, đổi tên thành Vũ Hồng Khanh. Tại Côn Minh Vũ Hồng Khanh bắt liên lạc với các đồng chí Việt Nam Quốc Dân Đảng đang hoạt động tại hải ngoại trong tổ chức “Vân Nam Đệ Nhất Đạo Bộ”, ông được bầu làm Đạo Bộ Trưởng thay cho Nguyễn Thế Nghiệp (đang lẩn trốn ở Mông Tự thuộc Vân Nam, vì bị Pháp đang cho lùng bắt). Vũ Hồng Khanh đã cùng các đồng chí của mình trong “Đạo Bộ” tích cực hoạt động nhằm tập họp các đồng chí trong nước trốn thoát sang, vận động giới Việt kiều giúp đỡ, mở rộng tổ chức. Không bao lâu sau tổ chức của Vũ Hồng Khanh trở thành một trong những nhóm hoạt động mạnh nhất của Việt Nam Quốc Dân Đảng tại hải ngoại.

Nhờ sự hỗ trợ và khuyến khích của Trung Hoa Quốc Dân Dảng, các nhòm Việt Nam Quốc Dân Đảng hải ngoại đã mở hội nghị hợp nhất (từ ngày 15 đến 24/7/1932) lấy tên mới là “Việt Nam Quốc Dân Đảng Hải Ngoại Biện Sự Xứ” (Bureau d’Outre – Mer du Việt Nam Quốc Dân Đảng), còn được gọi là Hải Ngoại Bộ, Vũ Hồng Khanh được đề cử làm Ủy Viên Hải Ngoại Bộ.

Vào năm 1942, tại Liễu Châu (Trung Quốc), Vũ Hồng Khanh cùng các ông Nghiêm Kế Tổ (đại diện cho Việt Nam Quốc Dân Đảng), Nguyễn Tường Tam (đại diện Đại Việt Dân Chính Đảng), Nguyễn Hải Thần, thành lập ra tổ chức “Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội”, thường gọi tắt là “Việt Cách”. Tháng 5 năm 1945, tại Trùng Khánh (Trung Quốc), Việt Nam Quốc Dân Đảng liên minh với Đại Việt Quốc Dân Đảng (Trương Tử Anh) và Đại Việt Dân Chính Đảng (Nguyễn Tường Tam) làm thành một tổ chức mới đặt tên là Đại Việt Quốc Dân Đảng (dùng tại Việt Nam) còn tại Trung Quốc thì lấy tên là Quốc Dân Đảng Việt Nam (không dùng chữ Đại Việt vì tránh sự hiểu lầm về danh xưng trong ngoại giao giữa VN và TQ).

Ngày 1/9/1945, Vũ Hồng Khanh từ Côn Minh về nước qua ngả Mường Khang, vào Lào Cai. Ngày 15/12/1945, các đảng phái chống Việt Minh hợp tác lại để thành lập Mặt Trận Quốc Dân Đảng Việt Nam, Vũ Hồng Khanh được đề cử làm Bì Thư Trưởng của tổ chức nầy. Việt Minh ngày càng tỏ ra lấn át mọi tổ chức khác, nên gặp nhiều chống đối phải cho lập Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến (cùng đánh đuổi Pháp trở lại chiếm Đông Dương), ngày 2/3/1946, Vũ Hồng Khanh tham gia vào chính phủ nầy, nhận chức Phó Chủ Tịch Kháng Chiến Ủy Viên Hội (sau đổi thành Ủy Ban Khàng Chiến). Ông và Hồ Chí Minh đã ký với Jean Sainteny “Hiệp Định Sơ Bộ 1946”.   

Đến tháng 7 năm 1946, vụ Việt Minh cho công an khám xét bất ngờ trụ sở của Việt Nam Quốc Dân Đảng tại phố Ôn Như Hầu, cho rằng nơi nầy có chứa vũ khí, truyền đơn, hiệu triệu chống chính phủ (nhưng theo các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng thì nơi nầy chỉ là nơi làm việc bình thườn, không có vũ khí đáng ngại mà phải bị triệt hạ). Vụ nầy đã khiến Vũ Hồng Khanh và các lãnh đạo các đảng phái chống Việt Minh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam phải bỏ Hà Nội lánh sang Trung Quốc.   

Cuối tháng 12/1949, Cộng Sản Trung Quốc thắng Quốc Dân Đảng Trung Quốc, dồn tàn quân của Tưởng Giới Thạch chạy đến biên giới Việt Nam. Vũ Hồng Khanh chỉ huy chừng 7 đến 8 ngàn quân Quốc Dân Đảng Trung Quốc tiến vào Việt Nam qua ngả Nacham (giữa Lạng Sơn và Cao Bằng), gặp quân Pháp đang trú phòng tại đây, muốn tước vũ khí của đoàn quân nầy, và đụng độ xảy ra. Theo “The Quicsand War: Prelude to Vietnam” (page 159-160), Luicien Bodard có viết: “Bị cả quân Pháp và quân Việt Minh vây đánh, quân của Vũ Hồng Khanh bị hao mòn vài ngàn người, nên đến ngày 6/1/1950, Vũ Hồng Khanh và số tàn quân còn lại hạ vũ khí đầu hàng quân Pháp”.

Năm 1952, Vũ Hồng Khanh được nội các của chính phủ Quốc Gia Việt Nam (do Quốc Trưởng Bảo Đại đứng đầu, chọn Nguyễn Văn Tâm làm Thủ Tướng) mời làm Bộ Trưởng Bộ Thế Thao và Thanh Niên.

Từ năm 1954 đến 1975, Vũ Hồng Khanh lãnh đạo một hệ phái Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Miền Nam Việt Nam.

Sau 30/4/1975, cũng như những thành phần khác làm việc cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa bị Việt Công bắt đi tù, Vũ Hồng Khanh cũng không thoát khỏi, mặc dù lúc nầy ông đã 77 tuổi. Sau 11 năm tù, năm 1986, ông được tha về, nhưng vẫn bị quản thúc tại nhà tại làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc với người con gái lớn là bà Vũ Thị Được (có tài liệu cho rằng năm 1977, Bộ Trưởng Công An Việt Cộng Trần Quốc Hoàn có vào nhà lao thăm Vũ Hồng Khanh và xin cho thả ông ra tù sớm vì có công đã can thiệp với Tướng Trương Pháp Khuê của Trung Hoa Quốc Dân Đảng thả Lý Thụy vào năm 1943 tại Liễu Châu, Trung Quốc. Nhưng theo người viết thì việc nầy chỉ là tin kháo nhau của anh em trong tù, chính người viết có ở chung trại Hà Tây với cụ Khanh mãi tới 1981 mới rời khỏi trại nầy để chuyển sang trại khác, và lúc đó cụ Khanh vẫn còn trong tù). Năm 1992, Vũ Hồng Khanh được phép vào Sài Gòn thăm con gái và con rể. Ngày 14/11/1993 ông mất tại làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, ở tuổi đại thọ 95!

*.- 5. Nguyễn Tường Tam (阮祥三 hay 阮祥)

Nguyễn Tường Tam sinh năm 1906 (ghi theo “Hồi ký họ Nguyễn Tường” của Nguyễn Thị Thế, em gái Nguyễn Tường Tam), tại Cẩm Giàng (Hải Dương), nhưng nguyên quán là làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, Quảng Nam.  

Ông nội của Nguyễn Tường Tam là Nguyễn Tường Tiếp, làm Tri Huyện Cẩm Giàng, nên dân trong huyện gọi ông là Huyện Giám. Ông Tiếp về hưu tại Cẩm Giàng, ông chỉ có một người con trai duy nhất là Nguyễn Tường Chiếu (húy Nhu) làm Thông Phán, nên thường được gọi là Thông Nhu hay Phán Nhu. Ông Nhu cưới bà Lê Thị Sâm và có với nhau 7 người con:

Nguyễn Tường Thụy (Tổng Giám Đốc Bưu Điện)

Nguyễn Tường Cẩm (Kỹ Sư Canh Nông, Giám Đốc báo Ngày Nay)

Nguyễn Tường Tam (nhà văn Nhất Linh)

Nguyễn Tường Long (nhà văn Hoàng Đạo)

Nguyễn Thị Thế

Nguyễn Tường Lân hay Vinh (nhà văn Thạch Lam)

Nguyễn Tường Bách (Bác Sĩ)

Ông Nhu mất năm 1918 lúc mới 37 tuổi, bà Sâm một mình phải lo nuôi 7 người con, nên rất vất vả và thiếu thốn đủ mọi bề. Chính đây là lúc mà Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Tường Lân đã từng sống lăn lộn với nhòm người nghèo khổ ở thôn quê nên rất thấu hiểu hoàn cảnh của họ để rồi thể hiện nỗi lòng nầy trong các tác phẩm của minh.

Thuở nhỏ, Nguyễn Tường Tam theo học tiểu học tại Cẩm Giàng, rồi lên Hà Nội học trung học tại trường Bưởi. Năm 16 tuổi, Nguyễn Tường Tam đã làm thơ và đăng ở báo Trung Bắc Tân Văn, năm 18 tuổi thì viết bài “Bình Luận Văn Chương về Truyện Kiều” đăng trên Nam Phong Tạp Chí.

Năm 1923, ông đậu bằng Cao Tiểu Học, nhưng lúc đó chưa đến tuổi vào trường Cao Đẳng, nên phải đi làm thư ký ở Sở Tài Chính (Hà Nội), rồi làm quên với Tú Mỡ, Nguyễn Tường Tam viết báo cho tờ Nho Phong. Thời gian nầy Nguyễn Tường Tam kết hôn với bà Phạm Thị Nguyên.

Năm 1924, Nguyễn Tường Tam theo học ngành Y và Mỹ Thuật, nhưng được một năm rồi bỏ. Năm 1926, Nguyễn Tường Tam vào Nam gặp Trần Huy Liệu và Vũ Đình Di để cùng làm báo, nhưng vì tham dự đám tang cụ Phan Chu Trinh nên hai ông Liệu và Di bị bắt, còn ông trốn thoát sang Cao Miên, sống bằng nghề vẽ và tìm đường du học.

Năm 1927, Nguyễn Tường Tam sang được Pháp, vừa học về khoa học vừa nghiên cứu về ngành báo chí và xuất bản. Năm 1930, ông đậu bằng Cử Nhân Khoa Học Giáo Khoa (Lý, Hóa) rồi trở về nước.

Trở về nước, Nguyễn Tường Tam xin ra tờ báo tráo phúng “Tiếng Cười”, nhưng lần nào hỏi thăm đều nghe Sở Báo Chí của Phủ Thống Sứ cho biết là “phải chờ” (theo Tú Mỡ, Vu Gia dẫn lại tr. 24). Trong thời gian chờ đợi, ông xin dạy học tại trường tư thục Thăng Long và tại đây Nguyễn Tường Tam làm quen được với thấy dạy văn Trần Khánh Giư (tức nhà văn Khái Hưng).

Chờ mãi giấy phép để xuất bản tờ “Tiếng Cười” không được, năm 1932 Nguyễn Tường Tam phải mua lại tờ “Phong Hóa” của Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai, và ông trở thành Giám Đốc của tờ báo nầy từ số 14 (ra ngày 22/9/1932). Theo “Tự Điển Văn Học” (Bộ Mới) mục nói về Nhất Linh (NXB Thế Giới 2004, tr. 1255), Nguyễn Hoành Khung viết rằng, ông chủ trương dùng tiếng cười trào phúng để đã kích các hủ tục phong kiến, hô hào “Âu hóa”, đề cao “chủ nghĩa cá nhân”. Cũng trong năm nầy, Nguyễn Tường Tam quyết định thành lập nhóm “Tự Lực Văn Đoàn” trên nguyên tắc “dựa vào sức mình, theo tinh thần anh em một nhà, với số người tham gia không quá 10 để không phải xin giấy phép. Theo “Tú Mỡ” (tr. 26) tác giả Vu Gia viết rằng nội dung việc thành lập “Tự Lực Văn Đoàn” chỉ nêu ra trong nội bộ về mục đích tôn chỉ, anh em tự nguyện, tự giác noi theo. Nhưng về sau “văn đoàn” này tình chuyện lâu dài nên mới chính thức tuyên bố thành lập ngày 2/3/1934 (báo Phong Hóa số 87).

Tháng 6/1935, báo “Phong Hóa” bị đóng cửa 3 tháng vì loạt bài “Đi Xem Mũ Cánh Chuồn” (châm biếm Tổng Đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu), rồi tiếp tục được phát hành, nhưng chỉ một năm thì bị đóng cửa vĩnh viễn (số cuối là số 190 ra ngày 5/6/1936). Theo “Việt Nam Văn Học Giản Lược Tân Biên” (NXB Thanh Niên, Sài Gòn 2008, tập 3, 1965, tr. 442) mục nói về “Anh Em Nguyễn Tường Tam”, Giáo Sư Phạm Thế Ngũ viết rằng ông Linh cho biết, nhà thơ Tú Mỡ từng hồi ức rằng dạo ấy báo Phong Hóa liên tục xoáy sâu vào chế nhạo và châm biếm triều đình Huế, nên nhà cầm quyền Pháp lấy cớ tờ báo đăng truyện “Hậu Tây Du” nói cạnh khóe đến những nhân vật mới trong triều đình thân Pháp mà đóng cửa báo.

Tuần báo “Ngày Nay” (số 1 ra ngày 30/1/1935, số cuối 224 ra ngày 7/9/1940) trước đây ra kèm với tờ “Phong Hóa”, sau khi tờ “Phpng Hóa” bị đình bản thì nó vẫn tiếp tục. Tháng 12/1936, trên báo Ngày Nay nầy, Nguyễn Tường Tam cùng nhóm “Tự Lực Văn Đoàn” phát động phong trào “Ánh Sáng” (một tổ chức từ thiện) nhằm mục đích cải tạo nếp sóng thôn quê trong đó có việc làm nhà “hợp vệ sinh” cho dân nghèo.

Nguyễn Tường Tam vừa là nhà văn, vừa là nhà báo nên có nhiều bút danh như Nhất Linh, Tam Linh, Bảo Sơn, Lãng Du, Tân Việt, Đông Sơn (trên tranh vẽ)... Ông là người thành lập “Tự Lực Văn Đoàn”, từng là Chủ Bút của các tờ báo Phong Hóa, Ngày Nay.

Về hoạt động chính trị, Nguyễn Tường Tam là người sáng lập ra tổ chức Đại Việt Dân Chính Đảng (Năm 1938, Nguyễn Tường Tam thành lập Đảng Hưng Việt, rồi năm 1939, đổi tên là Đại Việt Dân Chính do ông làm Tổng Thư Ký, và như thế hoạt động chống Pháp của nhóm “Tự Lực Văn Đoàn” được công khai. Sau khi các tổ chức Đại Việt Dân Chính Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng hợp nhất, ông giữ chức Bí Thư Trưởng của tổ chức mới nầy (Việt Nam Quốc Dân Đảng). Chính phủ Liên Hiệp Khánh Chiến” ra đời, ông được cử giữ chức Bộ Trưởng Ngoại Giao.   

Năm 1940, Pháp cho bắt các ông Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trị đày lên Sơn La đến năm 1943 mới thả ra, trong thời giaqn nầ, Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách vẫn tiếp tục giữ việc hoạt động bình thường cho tờ Ngày Nay, nhưng đến tháng 9/1943, thì báo này bị đóng cửa (số báo cuối cùng là số 224).

Trong giai đoạn nầy mọi hoạt động của Dân Chính Đảng gần như tan rã...

Thạch Lam bị bệnh Lao và mất tại Hà Nội.

Năm 1942, Nguyễn Tường Tam phải lánh sang Quảng Châu. Từ năm 1942 đến 1944, ông trau dồi Anh Văn và Hán Văn.

Sống lưu vong tại Quảng Châu và Liễu Châu, ông gặp Nguyễn Hải Thần và Hồ Chí Minh (Hồ Chí Minh bị Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt nhốt, và mới thả ra; còn Nguyễn Tường Tam bị Trương Phát Khuê bắt bỏ tù 4 tháng tại Liễu Châu, may nhờ Nguyễn Hải Thần bảo lãnh, mới được ra khỏi tù), Nguyễn Tường Tam hoạt động trong Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, tịa Côn Minh, thì hoạt động trong Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng với Vũ Hồng Khanh. Tháng 3/1944, tại Liễu Châu, Nguyễn Tường Tam được bầu làm Ủy Viên Dự Khuyết Ban Chấp Hành Trung Ương của tổ chức Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (tức Việt Cách).

Khoảng giữa năm 1945, Nguyễn Tường Tam về Hà Giang cùng với lực lượng quân đội của Vũ Hồng Khanh, nhưng sau đó quay lại Côm Minh, rồi đi Trùng Khánh (giai đoạn này Nhất Linh có viết lại trong tiểu thuyết “Giòng Sông Thanh Thủy”). Theo lệnh của ông từ Trung Quốc gởi về cho các ông Hoàng Đạo, KHái Hưng, Nguyễn Gia Trị và Nguyễn Tường Bách là cho tục bản báo Ngày Nay với khổ nhỏ. Ngày 5/3/1945, báo Ngày Nay trở thành cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng.   

Tại Trùng Khánh vào tháng 5/1945, Đại Việt Dân Chính Đảng sát hập với Việt Nam Quốc Dân Đảng, rồi tổ chức nầy liên minh với Đại Việt Quốc Dân Đảng, Nguyễn Tường Tam được làm Bí Thư Trưởng (có sách nói là Tổng Thư Ký) của tổ chức mang tên chung là Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cuối năm 1945, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập Mặt Trận Quốc Dân Đảng.

Đầu năm 1946, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội, xuất bản báo “Việt Nam”, tiếng nói của tổ chức hoạt động đối lập với chính quyền “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”. Tháng 3 năm 1946, sau khi các tổ chức chính trị đã đám phán với nhau thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Khánh Chiến, ông (Nguyễn Tường Tam) được cử giữ chức Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao, và tham gia Quốc Hội Khóa I, đặc cách không qua bầu cử.

Theo “Vietnam: State, War, and Revolution (1945-1946)” (California: University of California Press, 2003, page 442), David G. Marr cho rằng Nguyễn Tường Tam là người phát ngôn viên có năng lực có thể giải quyết một số tranh cãi về chiến thuật đàm phán trong đoàn, nên được cử làm Trưởng Đoàn Việt Nam đi dự Hội Nghị Trù Bị Đà Lạt đàm phán với Pháp, nhưng trên thực tế Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo phái đoàn. Theo Võ Nguyên Giáp, do bất đồng, Nguyễn Tường Tam không tham gia hầu hết các phiên họp.

Nguyễn Tường Tam cũng được cử dẫn đầu phái đoàn Việt Nam dự hội nghị Fontainebleau, nhưng cáo bệnh không đi và rời bỏ “chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến” để lưu vong sang Trung Quốc (tháng 5/1946) rồi ở lại Hồng Kông cho đến năm 1951. Vụ “Ôn Như Hầu” xảy ra, Việt Minh cho khám xét các cơ sở của VNQDĐ và Đại Việt QDĐ, vì cho rằng những nơi nầy có chứa vũ khí, truyền đơn tuyên truyền chống chính quyền, nên nắt một số đảng viên của 2 đảng nầy (và một số khác bị mất tích). Về việc Nguyễn Tường Tam rời bỏ chính phủ “Liên Hiệp” lánh sang Hồng Kông trước đó thì Việt Minh đã tuyên bố ông ta đào nhiệm và biển thủ công quỹ (số tiền chi phí cho phái đoàn sang Pháp để đàm phán). Theo David G. Marr (sách vừa dẫn) thì không thể xảy ra chuyện này, vì Nguyễn Tường Tam lúc đó khó có thể được Việt Minh tin tưởng để giao trách nhiệm giữ tiền của phái đoàn di Pháp.

Năm 1947, tại Hồng Kông, Nguyễn Tường Tam cùng Trần Văn Tuyên, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn Hải Thần, Lưu Đức Trung thành lập Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia Liên Hiệp. Mặt trận nầy ủng hộ giải pháp Bảo Đại thành lập Quốc Gia Việt Nam, chống cả Việt Minh lẫn Pháp. Đến năm 1950, “mặt trận” này giải thể.

Về lại nước năm 1951, Nguyễn Tường Tam mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản các sách của “Tự Lực Văn Đoàn” và tuyên bố không tham gia các hoạt động chính trị nữa. Năm 1953, ông lên sống tại Đà Lạt (thực tế, tuy ông tuyên bố “không hoạt động chính trị nữa”, nhưng trong Quốc Dân Đảng của Việt Nam vẫn còn tồn tại phái Nguyễn Tường Tam cạnh tranh với hai phái khác). 

Năm 1958, rời Đà Lạt, Nguyễn Tường Tam trở lại Sài Gòn, làm chủ tờ “Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay”, nhưng mới ra được 11 số thì bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt phải đình bản. Năm 1960, tại Sài Gòn, Nguyễn Tường Tam cho thành lập Mặt Trận Quốc Dân Đoàn Kết, ủng hộ cuộc đảo chánh của Đại Tá Nguyễn Chánh Thi và Trung Tá Vương Văn Đông. Vụ đảo chánh thất bại, ông bị nhà cầm quyền Đệ Nhất Cộng Hòa giam lỏng tại nhà riêng. Sau đó được tin là ngày 8/7/1963, ông sẽ bị đưa ra tòa xét xử. Vào đêm 7/7/1963, Nguyễn Tường Tam uống rượu có pha thuốc độc tự tử, để lại lời phát biểu nổi tiếng sau (Theo “Tự Điển Danh Nhân Thế Giới”, phần nói về Nhất Linh (NXB Thế Giới, 1970) của tác giả Trịnh Vân Thanh (Trịnh Chuyết):

Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội những phần tử quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng Sản. Vì thế tôi tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu, để cảnh cáo những ai chà đạp mọi thứ tự do”.

Nguyễn Tường Tam có vợ là bà Phạm Thị Nguyên (chủ hiệu buôn cau nổi tiếng Cẩm Lợi, số 15 Hàng Bè, Hà Nội), bà mất tại Pháp ngày 6/5/1981.

Theo Nguyễn Tường Thiết trong sách “Nhất Linh, Cha tôi” (Gardena, CA: Văn Mới, 2006) thì ông bà Nhất Linh có với nhau 5 người con trai (Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Triệu, Nguyễn Tường Thạch, Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Tường Thái) và 2 người con gái (Nguyễn Kim Thư, Nguyễn Kim Thoa).

TRƯỜNG XUÂN PHU TỬ - HỒ QUANG
© Copyright 2012    http://vietnamsuhoc.com/    All right reserved.   E-mail:info@vietnamsuhoc.com    Designed by Ho Quang.