Trang Văn Học & Lịch Sử Việt Nam
NHỮNG HOẠT ÐỘNG YÊU NƯỚC CỦA NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI – Bài 4

Tưởng như thế đã yên, nào ngờ vào khoảng tháng 9 năm 1917, Bộ Thuộc Ðịa Pháp cho bắt giam ông Trường vào tù vì cho rằng chính ông là người “chủ mưu xúi giục” đám lính thợ làm “đơn xin giải ngũ để hồi hương”. Trong vụ này ông Trường nói rằng: “chỉ dịch giúp đơn xin của họ mà thôi và đã dựa vào sự kiện ‘chính quyền thuộc địa dán áp-phích quảng cáo khắp nơi, nội dung nói rằng thời gian đi lính chỉ một năm rồi về...’, nhưng thơi gian phục vụ trong quân ngũ đã quá hạn nên ông đã giúp họ “dịch sang Pháp ngữ những đơn xin hồi hương mà họ nhờ...” Rất may cho ông Trường, nhờ vào những người lính thợ mà ông ta đã tìm được bằng chứng về viên sĩ quan phụ trách điều tra vụ án bắt ép những người lính thợ phải khai “chính Phan Văn Trường đã xúi giục” (Theo “Une histoirede conspirateurs annamites à Paris- Chuyện Những Người An Nam Âm Mưu Tại Paris- Hồi Ký của Phan Văn Trường, L'insomniaque, 2003, trang 170-171). Ngoài chuyện sai quấy của viên sĩ quan điều tra vụ án (dụ nhân chứng khai gian là ông Trường xúi giục, nhưng họ lại khai ngược - chính ông Phan Văn Trường đã ngăn cản họ nộp đơn xin giải ngũ!), còn có sự che chở của viên Thiếu Tá chỉ huy trưởng Malacamp (ông này rất có thiện cảm với ông Trường khi làm việc tại trại này) nên đã tìm mọi cách bên vực, sẵn sàng làm nhân chứng “ông Trường là người tốt”. Kết cuộc, ông Trường được thoát tội.
Như thế chuyện làm của ông Trường qua vụ án này là oan hay ưng? Chuyện oan trái thật sự đang ở về phía luật pháp, còn đối với ông Trường thì rõ ràng mọi hoạt động của ông nhằm thực hiện việc chống thực dân, giúp dân An Nam thoát khỏi cảnh bị trị, thì lúc nào cũng bị mật thám Pháp theo dõi bám sát. Do đó, việc “xúi giục” của ông Trường là “có”! Trong một mật báo, không ghi rõ ngày của mật thám Pháp đã viết như sau:
Hội những người An Nam yêu nước đã được thành lập từ nhiều năm nay do hai nhà cách mạng chống Pháp là Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh. Ðó là một nhóm hoạt động rất tích cực. Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực. Từ hồi hai người trên, Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh bị bắt vì tội chống an ninh quốc gia. Vào năm 1915, tuy Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường vẫn giữ vai trò lãnh đạo Hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã là do chính Nguyễn Ái Quốc.(Thu Trang, Những Hoạt Ðộng Của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Ðông Nam Á, Paris, 1983, trang 44).
Nếu báo cáo này cho ràng Nguyễn Ái Quốc mới là nhân vật chính lãnh đạo những người Việt kiều yêu nước lúc đó thì có thể đây là chuyện lầm lẫn vì Nguyễn Ái Quốc là bút hiệu của nhóm “Ngũ Long” xuất hiện vào nửa sau năm 1919 (thời gian này Nguyễn Tất Thành mới có mặt tại Paris). Bản báo cáo viết rằng: “Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực. Từ hồi hai người trên, Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh bị bắt vì tội chống an ninh quốc gia” việc này cho chúng ta xác định rằng: “có sự qua lại giữa Phan Văn Trường với binh lính, sĩ quan An Nam từ tháng 7 năm 1915 đến tháng 5 năm 1919 ở Toulouse”.
Khi về Việt Nam, ông Trường bắt tay ngay vào việc viết báo để tiếp tục đấu tranh chống chế độ thực dân của Pháp Tại Việt Nam (tờ L'Annamtại Sài Gòn). Mọi hoạt động của ông Trường ở Sài Gòn đều được mật thám Pháp bám sát, nhưng họ chưa làm gì được vì chưa đủ bằng cớ để buộc tội một công dân Pháp như ông ta (dĩ nhiên không giống như cách đối xử với những người dân An Nam khác nếu có những hoạt động tương tự đều phải bị bắt và bị tra tấn, buộc phải nhận tội). Lợi dụng lợi thế này, năm 1926, ông Trường cho đăng lại các tài liệu như: “Bản kêu gọi Hội Quốc Liên đòi quyền độc lập cho Việt Nam” của báo Việt Nam Hồn và đảng Phục Việt của Nguyễn Thế Truyền ở Pháp, bài “xúi giục nhóm lính Pháp gốc Việt đang chiến đấu tại Trung Hoa bất tuân thượng lệnh” của báo L'Humanité Paris, vận động đồng bào làm lễ truy điệu cho ông Lương Văn Can (Hiệu Trưởng trường Ðông Kinh Nghĩa Thục)... Vin vào những việc làm mang tính chống đối đường lối chính sách hiện hành, nhà cầm quyền thực dân Pháp tại Việt Nam đã cho bắt ông Trường đưa ra tòa Tiểu Hình Sài Gòn xét xử. Ông Phan Văn Trường bị tòa tiểu hình này kết án 2 năm tù (bản án ngày 27 tháng 3 năm 1928 - theo Ngô Văn - Việt Nam 1920-1945, L'Insomniaque, 2000, trang 64-65). Ông Trường chống án lên tòa trên, Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn cho xử lại, nhưng vẫn y án như Tòa dưới. Vì là công dân Pháp, ông Trường không chấp nhận bản án của các tòa án thuộc địa, nên tiếp tục chống án lên Tòa Phá Án Paris. Ðến Paris, ông Trường cũng bị Tòa Phá Án tại đây xử y án lần nữa, lần này ông Trường hết phương, đành chấp nhận vào tù (tại Paris, tháng 6 năm 1929). Tám tháng sau (tháng 2 năm 1930), nhờ sự vận động xin ân xá của Luật Sư Marius Moutet (đang là Dân Biểu của đảng Xã Hội Pháp), ông Trường được ra tù, rồi trở về lại Việt Nam, mở văn phòng cố vấn pháp luật ngay tại Sài Gòn. Năm 1933 ông ra Bắc thăm gia đình, tưởng sẽ về lại được Sài Gòn, nhưng không ngờ bệnh gan trở nặng, ông Trường qua đời tại Hà Nội ngày 22 tháng 4 năm 1933 (Theo Ðặng Hữu Thụ - Thân Thế và Sự Nghiệp Nhà Cách Mạng Nguyễn Thế Truyền, xuất bản tại Melun, Pháp, 1993, trang 35-36).
Cụ Phan Chu Trinh và ông Phan Văn Trường là hai trụ cột chính của phong trào yêu nước tại hải ngoại, nhưng cách hành sử của 2 ông lại khác nhau. Về phần ông Phan Văn Trường lúc nào cũng kính trọng và khâm phục cụ Phan Chu Trinh, song vẫn cứ cho rằng đường lối đấu tranh của cụ Phan Chu Trinh thật quá ngây thơ “khi tin vào chính quyền thuộc địa” (khi còn ở tại Paris, cụ Phan Chu Trinh cứ hay đến Bộ Thuộc Ðịa kêu cứu, cụ nghĩ làm như thế thì Bộ này sẽ cho thay đổi chính sách cai trị tại Ðông Dương!). Ðiều này với ông Phan Văn Trường cho rằng khó có thể xảy ra, mà lợi thế chính của những người như nhóm của ông phải dùng ngòi bút, dùng những buổi diễn thuyết để đả kích trực tiếp những nhân vật chủ chốt như Bộ Trưởng Bộ Thuộc Ðịa, Toàn Quyền Ðông Dương, và hệ thống quan lại cai trị ở thuộc địa... may ra vì dư luận quần chúng tại Pháp mới gây ảnh hưởng được. Ông Trường đem so sánh chính sách thuộc địa ở Âu Châu thời La Mã với chính sách thuộc địa ở Á Châu của Trung Hoa, rồi kiêu hãnh rằng mình đã hấp thụ được nền văn minh lâu đời Ðông Phương, dĩ nhiên vượt trội hơn nền văn minh non trẻ của Tây Phương. Ông Trường biết lợi dụng “dân tộc tính của người Pháp” mà nói rằng “rất quý mến họ” để kéo họ về phe mình chống bọn “dã man giết người” ở thuộc địa. Ðối với chính quyền thực dân Pháp thì ông Phan Văn Trường là phần tử nguy hiểm hơn cụ Phan Châu Trinh (dầu sao thì tại Pháp ông Trường là người có thế lực, có nhiều quen biết với các chính khách Pháp, được trí thức Pháp biết đến nhiều hơn so với cụ Phan Chu Trinh, hơn nữa ông Trường có quốc tịch Pháp, lại là một Luật Sư, nên mọi việc làm ông Trường đều hành động công khai theo đúng luật pháp cho phép. Ví dụ như khi bắt bẻ một Bộ Trưởng, hoặc Toàn Quyền, ông Trường “định tội” họ thật rõ ràng theo đúng các điều luật quy định trong ngành tư pháp của Pháp).
Hôm nay khi nhắc đến Phan Văn Trường, các nhà nghiên cứu đều cho rằng “ông ta là người tiên phuông trong cuộc “cách mạng dùng ngòi bút” (qua báo chí) tại Pháp (mạnh nhất là thời gian tại Toulouse), nhằm chống lại đường lối cai trị của Bộ Thuộc Ðịa Pháp ở Ðông Dương.
Kết quả việc làm của ông Trường lúc đó là làm cho người Pháp hay Việt kiều tại Pháp khi đọc những bài báo hay các tác phẩm “Bản Án Chế Ðộ Thực Dân” và “Ðông Dương”, (ký tên Nguyễn Ái Quốc hay Nguyễn Ái Quấc) đều mang nội dung với hàm ý thông báo cho người dân Pháp biết về mọi thủ đoạn dã man, tàn ác của bọn thực dân lợi dụng danh nghĩa người Pháp đang đem áp dụng tại những nước thuộc địa. Thường những bài báo này đều có hình ảnh dẫn chứng, minh định rằng sự việc nêu lên là có thật (Những tài liệu cho các bài báo này được chuẩn bị kỹ trước đó, do những người từ Việt Nam được sang Pháp mang theo. Chẳng hạn như vào tháng 5/1918, ông Nguyễn An Ninh từ Sài Gòn sang Pháp, thì trước đó 2 năm, ông ta đã ra Hà Nội học, nên biết rõ được tình hình cả Nam Kỳ lẫn Bắc Kỳ. Hoặc như ông Nguyễn Thế Truyền ở Toulouse, sau khi học xong cũng trở về Việt Nam (Bắc Kỳ) thăm nhà từ tháng 8/1920 đến tháng 8/1921, ông nhận thấy rằng những bài viết trên báo tại Pháp có ký tên Nguyễn Ái Quốc (hay Quấc) rất được người trong nước kính trọng, xem Nguyễn Ái Quốc như một vị anh hùng...). (Theo Nguyễn Thế Truyền - “Một Người Bôn-Sê-Víc da vàng”. Khi trở lại Paris, Nguyễn Thế Truyền đã cùng một số bạn bè là nhà văn, nhà báo kể cả những người tại Châu Phi, Madagascar cùng nhau viết những bài nói lên sự cùng khổ của người dân thuộc địa đang sống dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp, cho đăng trên tờ “Người Cùng Khổ” (Le Paria) do Hội Liên Hiệp Thuộc Ðịa xuất bản. Lúc đầu những bài viết trên tờ Le Paria có bút danh bí mật là Nguyễn Ố Pháp (Nguyễn ghét Pháp), rồi sau đó là Nguyễn Ái Quốc hay Quấc (Nguyễn yêu nước). Bút hiệu Nguyễn Ái Quốc được nhóm Ngũ Long dùng làm bút hiệu chung (bút hiệu Nguyễn Ái Quốc lắm lúc viết thành Nguyễn Ái Quấc, có thể do những người ảnh hưởng nặng Nho học như cụ Phan Chu Trinh hay Nguyễn Tất Thành, vì viết trại đi trành phạm húy chăng? (?). Người viết cho rằng những tài liệu nghiên cứu về Hồ Chí Minh sau này, các sử gia CSVN hay nêu lên cách viết ban đầu khi dùng mẫu tự La Tinh chưa được hoàn chỉnh, nên mới có tình trạng viết “kách mệnh” thay vì “cách mạng” bằng chữ quốc ngữ trên báo Paria(?)...
Nhóm “Ngũ Long” khi viết báo tại Pháp đều dung chung bút hiệu “Nguyễn Ái Quốc (hay Nguyễn Ái Quấc), nội dung các bài báo đều gây bất lợi cho chính sách thuộc địa Pháp tại Ðông Dương, nên Bộ Thuộc Ðịa cho mật thám ngày đêm theo dõi và bắt giam người này. Lúc đó ông Nguyễn Tất Thành mới từ Anh quốc sang, tuy không phải là tác giả tất cả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc, nhưng sau một thời gian, có sự sắp xếp của nhóm ông ta (Nguyễn Tất Thành - lúc này đã là đảng viên của đảng Cộng Sản Pháp), đứng ra nhận lãnh mình là Nguyễn Ái Quốc. Từ đó tên tuổi Nguyễn Ái Quốc nổi bật lên ở chính trường Ðông Dương, để rồi Nguyễn Tất Thành chiếm làm của riêng, biến Nguyễn Ái Quốc thành Hồ Chí Minh!
Nhiều người từng đặt câu hỏi: “Tại sao những người trong nhóm Ngũ Long không ai xác minh chuyện này?... Ðiểm rõ ràng nhất mà ai cũng có thể thấy được đó là ông Nguyễn Tất Thành lúc đó mới tới Pháp thì làm sao đủ khả năng về Pháp ngữ để viết báo với bút hiệu Nguyễn Ái Quốc! Ðiều này có thể dẫn chúng ta tới cách suy luận:
Ðể trả lời câu hỏi này, đã có những lý do sau:
Thứ nhất, đối với các người khác trong nhóm “Ngũ Long”, ông Nguyễn Tất Thành không phải là người quan trọng lắm, và lại ông Thành còn là đảng viên của Ðảng Cộng Sản Pháp (Ðảng hoạt động hợp pháp trên đất Pháp), nên có tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc thì cũng không gặp nguy hiểm khi đối mặt với nhà cầm quyền.
Thứ hai, nhiều mật thám Pháp gốc Việt được chính quyền Pháp (Bộ Thuộc Ðịa) cắt đặt để theo dõi mọi hành động của Việt kiều sống trên đất Pháp, như người có bí danh Jean (chuyên theo dõi Nguyễn Tất Thành), có bí danh Désiré (theo dõi Nguyễn Thế Truyền)... Riêng cụ Phan Chu Trinh thì đã có Nguyễn Như Chuyên (sinh viên, làm thông dịch cho cụ Phan mà cũng chính là một mật thám của Pháp đặt cạnh cu). Cụ Phan xem Chuyên như là một đồ đệ của mình (ông Phan Văn Trường đã tình nghi Chuyên, nhiều lần nói với cụ Phan phải cảnh giác thì hơn, nhưng cụ Phan cho rằng ông Trường quá cẩn trọng nên mới nghĩ Chuyên như thế. Trong Hồi Ký của ông Phan Văn Trường có đoạn trách cụ Phan Chu Trinh “khinh suất” là nhằm vào lời cảnh báo này, và có đoạn nói rõ rằng chính Nguyễn Như Chuyện đã báo cáo sai để cụ Phan Chu Trinh và ông Phan Văn Trường bị Pháp bắt về tội “phiến loạn” (bị tù 11 tháng), không chỉ có thế mà chính Chuyên là người được Pháp cho vào ở tù chung với Phan Văn Trường để tiện việc theo dõi. Ðể cho ông Trường tin mình, Chuyên đã giả điên nhằm gây cảm tình để thuyết phục ông Phan Văn Trường viết đơn xin ân xá (điều này chứng tỏ ông Trường nhận tội), nhưng ông Trường không nghe. Thấy việc làm trong tù không hữu hiệu, nhà cầm quyền Pháp phải dùng mật thám theo dõi các thân chủ của ông Trường và hăm dọa những người này không được “mướn” ông Trường là luật sư (thưa kiện, bào chữa) giúp họ nữa, và nếu cứ tiếp tục nhờ vảo một kẻ phiến loạn, chống lại chính quyền (Pháp) như ông Trường làm luật sư biện hộ, thì chỉ có mang họa vào thân mà thôi. Nhờ những chuyện như thế này mà ông Phan Văn Trường mới có lý do viết thơ gởi lên Bộ Trưởng Nội Vụ và Bộ Thuộc Ðịa (đăng trên báo Le Paria) để tố cáo sự vô lý này.
Một chứng minh nữa về sự làm việc “ẩu tả” khó đem lại kết quả tốt của mật thám Pháp là câu chuyện của nhà văn Léon Werth viết trong cuốn Cochinchine(Rieder, 1926, Viviane Hamy, 1997), Léon Werth nói rằng ông ta rất khâm phục ông Nguyễn An Ninh, và thấy cuộc sống người dân Nam Kỳ đang bị áp bức bởi “bọn thực dân vô giáo dục” đang hành xử đối với một dân tộc “có truyền thống văn hóa lâu đời”, Léon Werth dẫn chứng sự ngu dốt này bằng câu chuyện thực, xảy ra ngay với tác giả: “...Hai mật thám người Việt có nhiệm vụ theo dõi Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn, nhưng thay vì theo dõi Ninh thì họ lại đi theo dõi Dejeande la Bâtie (Tây lai) - Chủ nhiệm báo La Cloche Fêlée mà Nguyễn An Ninh đang cộng tác... Khi Léon Werth và Nguyễn An Ninh rời Sài Gòn đi lục tỉnh chơi, hai tên mật thám này vẫn không hay biết gì, cứ tiếp tục theo dõi Dejean de la Bâtie để viết báo cáo cho cơ quan an ninh Pháp ở Sài Gòn hàng ngày. Ðến khi cơ quan an ninh Rạch Giá đánh điện lên báo với an ninh Sài Gòn là Nguyễn An Ninh đang ở Rạch Giá, thì mọi việc mới được xem lại, kết quả cả hai mật thám (theo dõi ông Ninh) đều bị mất việc!” (Cochinchine, trang 156) (Còn tiếp)

TRƯỜNG XUÂN PHU TỬ - HỒ QUANG
© Copyright 2012    http://vietnamsuhoc.com/    All right reserved.   E-mail:info@vietnamsuhoc.com    Designed by Ho Quang.