Trang Văn Học & Lịch Sử Việt Nam
Bài 4 - TRAO ĐỔI VỀ TRUYỆN KIỀU

CÓ NÊN PHÚ THÊM CHO THÚY VÂN NHỮNG VẺ ĐẸP NGOÀI VĂN BẢN TRUYỆN KIỀU?

Có lẽ vì khó giải thích cụm từ: khuôn trăng đầy đặn và cụm từ nét ngài nở nang nên nhiều nhà chú thích, bình giải Truyện Kiều đã vô tình phú thêm cho vẻ đẹp của Thúy Vân là có vẻ đẹp phúc hậu hay tướng mạo phúc hậu... (Xu hướng của trào lưu chọn nét ngài - là mày ngài) và thân hình mập mạp - cũng mang cái vẻ phúc hậu... (Xu hướng của trào lưu chọn khuôn lưng - đầy đặn hay nét người - nở nang).

Trên thực tế, không ít bạn đọc cũng không thể đồng tình với cách giải thích phú thêm những vẻ đẹp như vậy. Chúng tôi xin đơn cử một trích đoạn của tác giả Đinh Trần Cương trong bài sau:

VÀI Ý KIẾN VỀ QUYỂN CHỮ NGHĨA TRUYỆN KIỀU (Của NGUYỄN QUẢNG TUÂN) - Đinh Trần Cương (Tạp Chí Hán Nôm số 1/ 1992 (tr.60-64)

Đinh Trần Cương:

"Là một độc giả yêu mến Truyện Kiều, tôi đã tìm đọc quyển Chữ Nghĩa Truyện Kiều của Nguyễn Quảng Tuân (NXB. KHXH, H, 1990). Qua Lời nói đầu, tôi rất tán thành quan điểm của ông Tuân. Đọc nội dung sách, tôi tiếp thu được một lượng thông tin khá nhiều bổ ích. Tôi lại thấy ông Tuân đề xuất yêu cầu góp ý kiến và cũng thấy NXB KHXH cho biết sẽ in Truyện Kiều của ông, tôi xin mạnh dạn góp vài ý kiến, mong ông cân nhắc xem có thể giúp ích gì cho quyển sách sắp xuất bản không. Về những điều tôi muốn bàn, đã có một số trùng với những điều đã trình bày ở Tạp Chí Hán Nôm số 2/91. Dưới đây chỉ nói đến những điều chưa nói ở số Tạp Chí trên...

(Hình bìa của tủ sách "Trăm Năm")

...3. Trang 13 và 156: bàn về câu 20, do Trương Vĩnh Ký phiên âm là Khuôn lưng đầy đặn, nét người nở nang, ông Tuân một mặt thừa nhận là có thể phiên âm như vậy cũng được, nhưng về ý nghĩa thì lại phê phán là sai, mà theo ông, đúng ra phải là Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Lý của ông là trong câu ấy Nguyễn Du muốn tả cái vẻ mặt phúc hậu của Thúy Vân. Ông Tuân đã gặp lại một số học giả trước phỏng đoán về vẻ mặt phúc hậu. Tôi nói phỏng đoán vì người ta suy luận cho rằng Nguyễn Du muốn tả như vậy. Thực tế, Nguyễn Du không nói ra mà ta chưa biết đúng hay sai, nên ông Tuân không chứng minh rõ được. Về điểm này ông Nguyễn Thiện Chí đã có bài bàn ở Tạp Chí Hán Nôm số 2/90, không đồng ý với chữ nét ngài với các lý do:

- Vì Nguyễn Du có gọi gái điếm là ả mày ngài, nếu lông mày của Thúy Vân cũng là mày ngài, sợ bị đồng nhất với hạng đàn bà đĩ điếm.

- Cũng giống lông mày của Từ Hải (tôi bổ sung và theo ông Tuân, cả lông mày của Quan Vân Trường, hai vị này không thể tiêu biểu cho sự phúc hậu).

- Chữ nét ngài kết hợp với nở nang là mâu thuẫn về ngữ nghĩa, Nguyễn Du là bậc thiên tài gọt giũa từ ngữ không sơ suất như vậy được (Điểm này ông Tuân cũng có ý kiến là tả như vậy thì “Thúy Vân đâu có đẹp gì”.)

Ông Tuân tuy có dẫn chứng sách tướng để minh họa tướng phúc hậu, nhưng câu dẫn lại chỉ nói đến ngọa tàm vị, và ông giải thích là vị này ở dưới con mắt chứ không phải lông mày, vậy cũng không lấy được tướng pháp ra để tả sự phúc hậu. Xét qua những điểm nói trên thì thấy điều ông Tuân phỏng đoán và phân tích là chưa đủ tin cậy.

“Theo tôi (Đinh Trần Cương) nên căn cứ vào cả đoạn thơ giới thiệu Thúy Vân và những tình tiết liên quan đến Thúy Vân để xét. Bắt đầu giới thiệu Thúy Vân, Nguyễn Du viết: Vân xem trang trọng khác vời. Nét đầu tiên của Thúy Vân được làm nổi lên là vẻ trang trọng chứ không phải vẻ phúc hậu. Ở một câu sau, lại tả Thúy Vân cười nói đoan trang. Trang trọng và đoan trang là đặc điểm chung nói lên tính cách đứng đắn của người đã lớn khôn, không còn là trẻ con nhí nhảnh nữa. Nguyễn Du nhấn mạnh điểm này vì câu chuyện sẽ đưa Thúy Vân ra thay chị để kết duyên với Kim Trọng. Thúy Vân là em rất có thể bị coi là trẻ con vì Kiều là chị mà cũng còn chưa tính gì đến chuyện chồng con. Nhưng để người ta coi là trẻ con thì câu chuyện đặt ra sẽ không ổn. Và đến khi Kim Trọng cưới nàng, Nguyễn Du không thể khen là Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì được. Phong cách, tính nết của Thúy Vân đã được giới thiệu là trang trọng, đoan trang. Đó là một cách tả tổng quát. Nếu về thể chất, cơ thể, lại chỉ tả hai chi tiết là khuôn mặt và lông mày thì không cân đối. Khuôn mặt đầy đặn và lông mày nở nang lại không biểu hiện rõ được đó là người lớn hay trẻ con, như vậy là không thiết thực về ý tứ. Nét ngài là lông mày thanh nhỏ mà lại nở nang là lủng củng gợi ý thô xấu. Trong khi với các chữ nét người nở nang có thể nói lên vóc người đã lớn, lại rất có ý nghĩa, chữ người lại hợp vần rất sát với chữ vời ở câu lục trên. Còn chữ khuôn lưng hay khuôn trăng, tôi chưa đủ cơ sở để bàn...

Tôi trình bày mấy ý kiến thô thiển trên đây, nếu có sai lầm xin được nghe lời chỉ giáo.”

***

Lời bàn:

Chúng tôi không bàn đến vấn đề đúng hay sai, hợp lý hay không hợp lý của bài viết trên đây để đi đến kết luận quan điểm nào hợp lý và nên chọn là nét ngài hay nét người. Chúng tôi chỉ bàn đến phương pháp tư duy, phương pháp lựa chọn tiêu chí cơ sở để giải quyết vấn đề của tác giả Đinh Trần Cương.

Tác giả bài viết đã rất khoa học khi đặt ra vấn đề dựa vào tiêu chí nào để hiểu vẻ đẹp của Thúy Vân.

a. Ngôn từ cần dựa trên văn bản Truyện Kiều: Nguyễn Du chỉ viết vẻ đẹp của Thúy Vân là trang trọng khác vời và đoan trang. Nguyễn Du không viết vẻ đẹp phúc hậu. Nguyễn Du đang tả vẻ đẹp chứ không phải "xem tướng" cho Thúy Vân.

b. Ngôn từ - nội dung, ngữ nghĩa của nó phải phù hợp với lứa tuổi của Thúy Vân được xác lập trên văn bản "trên tuần cập kê", cái tuổi có thể lấy chồng.

Chúng ta có thể hiểu vấn đề này đơn giản như sau:

Giả sử ai đó tả bà Vương (mẹ của Thúy Vân) và Thúy Vân như những câu dưới đây:

Bà Vương đoan trang - Thúy Vân phúc hậu. Bà Vương ngoan hiền - Thúy Vân giàu lòng nhân ái, nhân hậu. Bà Vương trang trọng - Thúy Vân sang trọng. Bà Vương thông minh - Thúy Vân thông thái...

Trên đây, chúng tôi chỉ đưa ra các ví dụ có tính tương đối để thấy được rằng, ngôn từ miêu tả vẻ đẹp cũng cần phải đi đôi, phù hợp với lứa tuổi. Khó có thể nhận xét một cô bé vừa mới lớn, vừa mới dậy thì lại có thể trông phúc hậu, nhân hậu, sang trọng, thông thái...

Do đó, chúng ta không nên áp đặt hoặc phú thêm vào những vấn đề không có trong văn bản.

LỰA CHỌN TỪ KHUÔN LƯNG HAY KHUÔN TRĂNG, NÉT NGÀI HAY NÉT NGƯỜI

Việc có một số bản chép Truyện Kiều ở trong câu:

"Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang" thành ra một số câu ở các bản chép Truyện Kiều như sau:

- Tự phong đầy đặn nét người nở nang: bản (84) A.D Michels, 1884.

  Tự phong đầy đặn nét ngài nở nang: (D) bản Duy Minh Thị 1872,1879. (Trong đó, chữ ngài bị sai nét)

- Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang: có 5 bản (Bản 71- Liễu Văn Đường 1871; Bản TH - bản Thịnh Mỹ Đường 1879; Bản Q - bản Quan Văn Đường 1879; Bản V - VNB-60; Bản K - Kiều Oánh Mậu 1902)

- Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang: có 1 bản (Bản 70 - Lâm Nọa phu chép tay 1870)

 - Khuôn lưng đầy đặn nét người nở nang: Bản Trương Vĩnh Ký, quốc ngữ 1875, 1911.

Hiện tượng trên đây ta có thể nói một cách dân gian rằng: đó là do "tam sao thất bản". Nhưng theo quan điểm chúng tôi, một phần nguyên nhân chính là vì các học giả không giải thích được hai tiếng nét ngài một cách hợp lý và thuyết phục, và một phần do "về chữ viết thời bấy giờ, “ngài” và “người” viết giống nhau. Mãi về sau mới có sự phân biệt trên văn tự “ngài” được viết có bộ trùng ở bên:." (Nguyễn Thiện Chí). Cho nên mới xuất hiện chữ nét người và rồi xuất hiện khuôn lưng, tự phong để phụ thêm cho cái hình dáng, tư thế con người.

Chúng tôi không bàn đến việc lựa chọn chữ "tự phong" bởi chữ này đi với "đầy đặn" thì thật là khiên cưỡng và bí lối.

Bây giờ, chúng ta hãy bàn đến hai từ: Khuôn lưngKhuôn trăng.

Thực ra, từ lưng xuất hiện là do từ trăng (chữ Nôm http://nomfoundation.org/fonts/Nom157508.png) có thể phiên âm là trăng hoặc lưng.

Từ khuôn có thể hiểu đơn giản là chỉ sự định dạng một đối tượng nào đó. Như vậy, nói một cách khác rằng, đối tượng cần định dạng phải là đối tượng có đặc điểm là có nhiều hình thế khác nhau. Do đó, khi từ khuôn kết hợp với đối tượng sẽ chỉ ra được cái hình thế đối tượng đó là thế nào.

Xét từ: khuôn + lưng (lưng ở đây là lưng con người)

Bây giờ, chúng ta xét đến hình thế cái lưng con người.

Lưng là một bộ phận của con người, cũng giống như tay, chân, đầu, vai, ngực. Trong sự phát triển của con người từ bé đến lớn, hình thế cái lưng có thay đổi nhiều không? Chỉ có 2 dạng thái thường thấy: lưng (thẳng) của người từ trẻ, đến chớm già. Lưng còng thường xuất hiện ở tuổi già. Trong Truyện Kiều, nói khuôn lưng ở đây là chỉ cái lưng của Thúy Vân, một người trẻ. Ngoài ra, cái lưng còn có lưng vẹo, lưng gù... nhưng cái hình thế này chỉ là những biến thái, dị tật của cái lưng nên không cần xét đến.

Rõ ràng là cái lưng của con người từ lúc trẻ thơ đến trưởng thành thì chỉ có 1 định dạng, không đổi, nó chỉ có khác nhau, đồng dạng là lưng to, lưng nhỏ mà thôi.

Do vậy từ khuôn trong khuôn lưng trở nên thừa, bí lối. Có cần thiết định dạng một cái hình thế không đổi hay không?

Bây giờ xét về mặt tâm thức dân gian thể hiện qua ngôn ngữ. Chúng ta thấy ngôn ngữ thường dùng là: lưng thẳng, lưng còng, lưng gù, lưng như tấm phản... Có cụm từ nào được dùng là khuôn lưng (thẳng, cong, còng, gù...) hay không?

Trên cơ thể người, chỉ có 2 bộ phận được dùng từ khuôn để định dạng là khuôn mặt, khuôn ngực - vì mặt (trái xoan, bầu, tròn, dài...) và ngực (nở, lép, vuông vức...) tức là có nhiều định dạng. Như vậy, ta có thể bác bỏ trường hợp khuôn lưng (khuôn + lưng) vì tính bất cập của nó.

Còn từ khuôn trăng: khuôn + trăng là hoàn toàn hợp lý bởi trăng có nhiều định dạng: trăng tròn, trăng mờ, trăng tỏ, trăng khuyết, trăng nửa (nửa vầng trăng), trăng lưỡi liềm... Do đó, để diễn đạt cái trăng mà nó là loại trăng nào thì việc dùng từ khuôn + trăng là hoàn toàn hợp lý.

Nét người hay nét ngài:

Như trong các phân tích của ông An Chi, của thầy giáo Vũ Nho và đa phần các nhà nghiên cứu Truyện Kiều, cũng như sách giáo khoa khẳng định về mặt văn bản, chữ nghĩa: nét ngài, chúng tôi không đặt ra vấn đề lựa chọn chữ nét người nữa. Nhưng chúng tôi đặt ra vấn đề là hiểu nội dung của nét ngài là thế nào? Và nó có thể là mày ngài hay không?

Trả lời vấn đề này, mời các bạn xem tiếp các mục sau.

BÀN VỀ CÁCH HIỂU: KHUÔN TRĂNGKHUÔN MẶT, NÉT NGÀIMÀY NGÀI

Chúng tôi bàn về cách hiểu, bởi vì có một thực tế là không phải ai cũng hiểu một chữ, một câu thơ, một khổ thơ trong Truyện Kiều theo một cách giống nhau, thống nhất. Thậm chí, các cách hiểu trái ngược nhau vẫn tồn tại đến ngày nay, không chỉ đối với bạn đọc Truyện Kiều mà ngay đến các học giả uy tín đã từng có nhiều năm lao tâm khổ tứ với việc nghiên cứu Truyện Kiều.

Sở dĩ có hiện tượng trên là bởi vì có mấy nguyên nhân chính sau đây:

a. Xác định được chữ nghĩa chuẩn trong văn bản Truyện Kiều là một khó khăn vì chưa tìm được bản chữ Nôm do chính Nguyễn Du viết. Với đặc thù của chữ Nôm - một chữ có nhiều cách đọc, một âm có nhiều chữ viết khác nhau - việc xác định từ nào đúng với ý định sáng tác Nguyễn Du, đúng với ý nghĩa câu văn hoàn toàn không đơn giản.

b. Ngữ nghĩa của các từ được dùng trong văn bản Truyện Kiều ngoài việc kiêng kỵ phạm húy còn có vấn đề là tác giả dùng nhiều điển cố, dịch nhiều từ ngữ Hán không thông dụng trong Việt ngữ. Mặt khác, ngôn ngữ theo thời gian cũng bị biến đổi ngữ nghĩa nhiều và tư liệu từ điển quá hạn chế và quá ít.

c. Do đặc trưng của Thơ giàu nhạc điệu, nhưng phải tuân thủ âm luật; số tiếng trong mỗi câu lại bị quy định theo thể loại, nên phép đảo ngữ và phép lược ngữ (tỉnh lược) được sử dụng nhiều. Đặc biệt là trong Truyện Kiều, việc xác định chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ... các thành phần ngữ pháp là việc hoàn toàn không dễ với bạn đọc và ngay chính các học giả có uy tín.

Vì thế, cho đến nay chúng ta có nhiều sách chú thích Truyện Kiều cũng chỉ chú thích về điển tích, điển cố, từ ngữ và gợi ý cách hiểu, chứ chưa có sách nào chú thích về cú pháp, phân tích ngữ pháp một cách hệ thống.

d. Một vấn đề khác nữa là logic văn bản, nội dung Truyện Kiều chưa được quan tâm đúng mực. Các chú thích trong Truyện Kiều thường tách biệt một từ, hay một câu thơ để chú thích. Việc đặt ra vấn đề chú thích một từ, một câu cần được xem xét trong tương quan, trong logic văn bản theo một khổ thơ, một đoạn thơ, thậm chí toàn văn bản Truyện Kiều để xác định tính thống nhất nội dung, ngữ nghĩa chưa được quan tâm thích đáng. (Vd: Chúng ta giải thích từ trăm năm trong câu mở đầu Truyện Kiều thì phải xét toàn văn bản Truyện Kiều vì Nguyễn Du dùng từ này 12 lần rải rác ở những câu, những văn cảnh khác nhau. Hay từ một hai trong câu "Một hai nghiêng nước nghiêng thành", thì Nguyễn Du cũng dùng từ một hai trong nhiều câu ở những văn cảnh khác nhau...)

Bây giờ chúng ta xét câu:

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Giả sử, đây là câu văn bản chuẩn, tức là chúng ta không còn băn khoăn trường hợp a và b đã nói trên nữa.

Chúng ta hãy bàn đến cách hiểu: Nguyễn Du tả khuôn mặt Thúy Vân với khuôn trăng là khuôn mặt đầy đặn hay khuôn mặt đẹp như trăng tròn và nét ngài là nét mày ngài Thúy Vân tươi tắn.

Chúng ta hãy xét cách hiểu này trong trường hợp c và d nói trên. Tức là xét khía cạnh ngữ pháp và logic văn bản của cách hiểu này để tìm hiểu xem có gì là bất cập.

a, Vấn đề ngữ pháp:

Khi chúng ta xác định rằng câu thơ trên nhằm tả khuôn mặt của Thúy Vân tức là xác định Thúy Vân làm chủ từ. Nội dung văn bản khổ thơ sẽ là:

Vân xem trang trọng khác vời (1)

Vân (xem) khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang (2)

Vân (xem) hoa cười ngọc thốt đoan trang (3)

Vân (xem) mây thua nước tóc tuyết nhường màu da (4)

Câu hỏi đặt ra là:

a1. (1) và (3) là vẻ đẹp của tính cách:

Vẻ đẹp (1) trang trọng khác vời - không được giải thích là như thế nào? (Tại sao?). Trong khi đó, vẻ đẹp (3) đoan trang - được giải thích là như vẻ đoan trang của hoa cười, đoan trang của ngọc thốt.

Như vậy, cách hiểu này gây ra tính mất cân xứng trong việc giải thích nội dung, tạo nên một diễn giải lủng củng, khó có thể là văn phong của Nguyễn Du.

a2. (2) và (4) vẻ đẹp của bộ phận, hình thể:

(4) có tóc (nước) và da (màu) được so sánh với mây, tuyết

(2) có trăng (khuôn) nét ngài - mày ngài (tạm hiểu) được giải thích là đầy đặn, nở nang.

Tại sao, một bộ phận cơ thể là mặt (danh từ) lại phải thay bằng hình ảnh trăng trong khổ thơ này? trong khi các bộ phận đều được sử dụng danh từ - tên gọi trực tiếp (tóc, da, mày ngài) chứ không phải sử dụng hình ảnh thiên nhiên để tượng trưng, ước lệ?

Đây cũng là một sự lủng củng, không thống nhất giữa cách sử dụng danh từ thực và hình ảnh ước lệ.

Đó là vấn đề bất cập khi xác định cách hiểu dựa trên việc khẳng định Nguyễn Du đang tả khuôn mặt Thúy Vân về cấu trúc ngữ pháp. Một số ý kiến giải thích cho rằng: Nguyễn Du tả khuôn mặt của Thúy Vân nhằm giải thích vẻ trang trọng là thế nào thì cũng hoàn toàn mâu thuẫn vì khi xác định Thúy Vân làm chủ từ thì khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang với trang trọng khác vời có chức năng tương đương trong câu làm sao giải thích cho nhau được. Mặt khác, khi tả khuôn mặt, tính chất, hình thế của nó liệu có xác định được vẻ trang trọng là thế nào không?

B, Logic văn bản:

Có một điểm đặc biệt quan trọng, ít người chú ý tới là khi giới thiệu tổng quát về vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân, Nguyễn Du viết:

Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Mười phân vẹn mười là thành ngữ số dân gian để xác định về vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.

Đặc trưng của thành ngữ số dân gian là những tổng kết, đúc kết từ thực tế sinh động cuộc sống dưới dạng những câu nói vần điệu hết sức cô đọng và dùng con số để tạo cho người nghe cảm nhận trực diện, nhanh chóng mà không cần phải giải thích, mô tả nhiều. Vì vậy, sau câu thành ngữ đã dùng để tóm lược một vấn đề cuộc sống nào đó thì người ta không diễn giải thêm về vấn đề đó nữa.

Như vậy, mười phân vẹn mười cũng như trăm phần trăm (trong cách nói ngày nay) có nghĩa là không còn gì để tả nữa, không còn gì để nói nữa, và không phải nói bất cứ điều gì nữa. Điều đó cũng có nghĩa là, tuân thủ logic văn bản trên, Nguyễn Du cũng không tả (trực diện) vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân nữa. Điều đó cũng có nghĩa rằng, không có sự so sánh vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân là ai đẹp hơn ai.

Vậy phải chăng Nguyễn Du đã phạm vào nguyên tắc này khi tiếp tục tả thêm sắc đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân?

Không! Hoàn toàn không! Vì Nguyễn Du viết: một người một vẻ

Nên Nguyễn Du chỉ giải thích sự khác nhau của 2 vẻ đẹp ấy như thế nào mà thôi. Giải thích sự khác nhau của 2 vẻ đẹp khác hẳn với việc chúng ta đang hiểu là Nguyễn Du tả vẻ đẹp của riêng Thúy Vân và riêng Thúy Kiều.

Chúng tôi phân tích điều này là để thấy rằng không có cơ sở logic văn bản nào để chúng ta khẳng định Nguyễn Du đang tả vẻ đẹp khuôn mặt Thúy Vân (trực diện, đặc tả) như cách trên chúng ta hiểu.

Điều đó có nghĩa là: Cách hiểu Nguyễn Du tả khuôn mặt của Thúy Vân là không thuyết phục, cũng có nghĩa là không thể hiểu: khuôn trăng là khuôn mặt, nét ngài là nét mày ngài.

b1. Khi hiểu nét ngài là nét mày ngài liệu có giải thích được câu 1213?:

Khi hiểu nét ngài là nét mày ngài thì theo logic văn bản, với cách hiểu này phải giải nghĩa, phải giải thích được một cách rõ ràng nội dung câu 1213: Khi khóe hạnh khi nét ngài.

1205. Mụ rằng: -“Ai cũng như ai,“Người ta ai mất tiền hoài đến đây?“Ở trong còn lắm điều hay,“Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.“Này con thuộc lấy làm lòng:“Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.“Chơi cho liễu chán hoa chê, “Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.“Khi khoé hạnh, khi nét ngài,“Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa. “Đều là nghề nghiệp trong nhà,“Đủ ngần ấy nết mới là người soi.”

Đây là khổ thơ mà Tú Bà dạy cho Thúy Kiều bí quyết nghề nghiệp, hay những phương pháp chiêu thức hành nghề. Điều chúng tôi muốn lưu ý là những chỉ dẫn của Tú Bà trên đây mang tính hành động hay là các thao tác hành nghề. Cho nên, trong khổ thơ này ta thấy Nguyễn Du cũng dùng một loạt động từ: Chơi... chán... chê; Lăn lóc... mê mẩn... ngâm ngợi... cười cợt.

Tuy nhiên, lại lạc vào giữa các hành động này là câu: Khi khoé hạnh, khi nét ngài.

Theo logic trong văn bản, khổ thơ, thì mặc dù chúng ta chưa cần hiểu khoé hạnh, nét ngài là nội dung của nó thế nào, ngữ nghĩa ra sao? thì tối thiểu nội dung của nó cũng phải chỉ ra, nêu ra phương thức hành động. Do đó, ta có thể dễ dàng suy luận khoé hạnh, nét ngài là ngôn từ hay hình ảnh ước lệ (đã được phổ thông hóa trong dân gian hay đã được dân gian hóa, đã được sử dụng nhiều trong đời sống thường ngày) để diễn tả nội dung mang tính hành động. Như vậy, khóe hạnh và nét ngài không thể là danh từ chỉ các bộ phận trên khuôn mặt như khóe miệng, nét mày ngài như các chú giải phổ biến trong Truyện Kiều. Các chú giải phổ biến rằng: Khóe hạnh là nhoẻn miệng cười hay nét ngài là chau mày...thường là phải phú thêm vào văn bản những từ chỉ hành động như nhoẻn miệng, nhếch mép hay chau mày, dướn mày...mà thực tế, Nguyễn Du cũng đang dùng một loạt động từ và đâu có viết như vậy trên văn bản. Mặt khác, những hành động nhoẻn miệng, nhếch mép, chau mày, dướn mày... là những cử động xã giao thông thường thì làm sao có thể là bí quyết nghề nghiệp cho được.

Do đó, việc giải nghĩa hay hiểu nét ngài là nét mày ngài hay mày ngài là không thể thích hợp trong câu này, và không thể giải nghĩa được nội dung câu này.

 

ĐỀ XUẤT KIẾN GIẢI CỦA CHÚNG TÔI

KHUÔN TRĂNG ĐẦY ĐẶNTRANG TRỌNG KHÁC VỜI LÀ THẾ NÀO?

Về logic văn bản:

Như trên chúng tôi đã phân tích, khi Nguyễn Du viết: Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Điều đó có nghĩa là Nguyễn Du không tả vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân nữa và cũng không so sánh ai đẹp hơn ai, vẻ đẹp nào hơn vẻ đẹp nào. Và Nguyễn Du có viết tiếp thì chỉ giải thích sự khác nhau của vẻ đẹp riêng (một người một vẻ) và nguồn gốc của vẻ đẹp đó như thế nào?. Mặt khác, nếu có sự so sánh giữa Thúy Kiều và Thúy Vân thì đương nhiên là không thể so sánh vẻ đẹp nữa (vì đã đẹp mười phân vẹn mười) mà chỉ có thể so sánh phẩm chất, tố chất của hai người.

Thúy Vân thì:

- Về vẻ đẹp tính cách:  Trang trọng khác vời - Khuôn trăng đầy đặn - Nét (con) ngài nở nang. Đoan trang - Hoa cười, ngọc thốt

- Phẩm chất: Tài, Sắc (tài năng và sự sắc sảo) - Bình thường, không nhắc đến

- Nguồn gốc vẻ đẹp (Thiên nhiên, trời cho) - Mây thua nước tóc - Tuyết nhường màu da

Thúy Kiều thì:

- Vẻ đẹp tính cách: Trang trọng khác vời - Sắc sảo - Mặn mà: (Làn thu thủy, nét xuân sơn)

- Phẩm chất Tài năng (tài năng và sự sắc sảo) - Là phần hơn (ở mức có thể nghiêng nước, nghiêng thành) - Nguồn gốc vẻ đẹp (thiên nhiên, trời cho) - Hoa ghen thua thắm - Liễu hờn kém xanh.

Về việc xắp xếp lại trật tự cú pháp, phân định các chức năng câu, thành phần câu, chúng tôi xin nhờ các nhà chuyên môn ngôn ngữ, văn phạm giúp đỡ. Bởi việc phân định ngữ pháp trong Truyện Kiều là thực sự phức tạp và đòi hỏi chuyên môn cao.

Như theo bảng trên chúng tôi đã tổng kết thì: Câu: Vân xem trang trọng khác vời.

Về cấu trúc ngữ pháp thì chúng tôi xác định cụm từ  khuôn trăng đầy đặn và nét (con) ngài nở nang có chức năng giải thích vẻ trang trọng khác vời là thế nào. Khi xác lập cấu trúc này, có nghĩa là khuôn trăng không thể hiểu là khuôn mặt, nét ngài không thể hiểu nét mày ngài.

Tương tự như vậy, câu: Kiều (xem) càng sắc sảo, mặn mà là câu Nguyễn Du chỉ ra đặc trưng tính cách Thúy Kiều khác với Thúy Vân cũng có cấu trúc ngữ pháp tương tự.

Kiều (xem) càng sắc sảo, mặn mà.

Chúng tôi cũng xác định cụm từ làn thu thủynét xuân sơn có chức năng giải thích nội dung vẻ sắc sảo, mặn mà là thế nào. Điều này cũng có nghĩa là làn thu thủy không thể giải thích là ánh mắt... và nét xuân sơn không thể giải thích là lông mày...

Như vậy, 2 vẻ sắc sảo và mặn mà của Thúy Kiều tương đồng với 2 vẻ của Thúy Vân là trang trọng và đoan trang về mặt cấu trúc nội dung.

Trước khi giải nghĩa nội dung các vẻ tính cách của hai chị em, chúng ta cần điểm qua cái vẻ đoan trang của Thúy Vân.

Nguyễn Du viết: Hoa cười ngọc thốt đoan trang.

Nhiều bình luận, diễn giải câu này là Vân cười tươi hay đẹp như hoa, nói lời đẹp như ngọc. Thực ra, đó là cách hiểu nôm na, đại ý và cách hiểu đó đã biến Vân thành chủ ngữ là không đúng trên văn bản: Hoa cười - hoa là chủ ngữ và ngọc thốt - ngọc là chủ ngữ. Vậy hiểu đúng câu này là Vân có vẻ đoan trang như cái vẻ đoan trang của hoa cười và ngọc thốt. Sự khác nhau của hai cách hiểu này ở chỗ vẻ đoan trang của chính hoa khi cười và chính ngọc khi thốt nó tinh túy, cao diệu và đúng sự diễn tả tinh tế của Nguyễn Du hơn việc chúng ta hiểu nôm na là Vân cười như hoa, nói đẹp như ngọc.

+ Vẻ trang trọng khác vời của Thúy Vân được giải thích như thế nào?

Thông thường, các chú thích câu này trong Truyện Kiều là như sau:

Trang trọng:

Trang là đoan trang, bệ vệ, đứng đắn. Trọng là trọng hậu, phương phi. Trang tả tính tình lộ ra cử chỉ, trọng tả tầm vóc người. Khác vời là khác vì, nói trạnh ra. Vì dịch chữ vị là ngôi; là vị, là bậc, là chỗ, như ngôi sao, ngôi vua, vi sao, ba vì, (núi Ba Vì), một vì (nhà, ngôi nhà) ba vì táo quần, trị vì... làm vì... thay vì. Chữ vị chữ Hán lại hàm nghĩa là chỗ ở, chỗ ngồi, địa vị thường và chung cho cả một loại. Khác vì tức là khác các ngôi thường thấy ở loại đó. Ngôi lại có nghĩa là người, như ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai (văn phạm). Vân xem trong trọng khác vời, là xem nàng Vân thấy có vẻ trang trọng khác những người cùng một vì (cùng một địa vị, một trà lứa) với nàng, tức là khác những con gái thường thấy, vào tuổi nàng. Ý nói Thuý Vân đứng đắn và phương phi phúc hậu khác hẳn các cô gái cùng lứa tuổi nàng. (Chú giải của ông: Vân Hạc Lê Văn Hòe).

Tóm lại, chúng ta có thể hiểu đơn giản là: Trang trọng là đứng đắn nghiêm trang. Khác vời là khác xa.

Theo ý kiến chúng tôi, trong trường hợp này, hiểu câu khác vời là khác xa với người bình thường hay với các cô gái đồng lứa với Thúy Vân là chưa hết ý nghĩa của chữ này. Bởi nó chỉ phản ánh mối liên hệ tương quan giữa Vân với cái bên ngoài - bạn bè, trang lứa. Còn một ý nghĩa hết sức quan trọng và là thâm ý của Nguyễn Du là ở chỗ: Vân khác vời với chính cái bên trong - tức là với chính Thúy Vân. Điều này hết sức đơn giản là vì Vân đã bước sang tuổi cập kê, cái tuổi 15-16 trăng tròn là cái tuổi về hình thể người con gái có những chuyển biến rõ rệt, về tâm sinh lý cũng có những thay đổi có tính chất bước ngoặt của một đời người. Điều đó phản ánh Vân không còn là một cô bé trẻ con, Vân đã là một thiếu nữ đến tuổi phát dục, có thể lấy chồng và thế giới mới đang mở rộng ra trước mắt, trước ngưỡng cửa cuộc đời một thiếu nữ.

Vậy vẻ trang trọng khác vời của Thúy Vân nó như thế nào? Chúng ta hãy xác lập cách tư duy, cách hiểu về ẩn dụ của Nguyễn Du đơn giản giống như cách hiểu vẻ đoan trang của Thúy Vân mà chúng tôi đã phân tích trên. Tức là vẻ trang trọng khác vời của Thúy Vân nó như cái vẻ trang trọng khác vời của cái Trăng - mà cái trăng có khuôn, đầy đặn. Điều chúng ta cần mường tượng, cần cảm nhận về cái hình ảnh thiên nhiên: Trăng - nó ra sao khi có khuôn và đầy đặn.

Như đã biết, trăng có rất nhiều định dạng như trăng mờ, trăng tỏ, trăng lấp ló, trăng non, trăng khuyết, trăng nửa và trăng tròn... Vì vậy, khuôn trăng đầy đặn là loại trăng tròn, to, ở trên cao không bị che khuất vì ánh sáng rất mạnh nên nó tạo ra vành trăng, một đường viền đa màu sắc rõ ràng tách biệt hẳn với nền trời đêm. Vẻ của loại trăng này lừng lững trên bầu trời và tỏa sáng, soi tỏ khắp không gian đêm.

Do đó, dễ dàng suy luận rằng trăng này là trăng rằm. Vì nó ở trên cao, tròn, lừng lững, bệ vệ nên trông nó trang trọng và khác vời tức là khác với chính nó, khác với các hình ảnh khác của nó trong quá trình nó thường xuất hiện mà ta quan sát thấy. Sở dĩ Nguyễn Du so sánh vẻ trang trọng khác vời của Thúy Vân với loại trăng này vì nó có nét tương đồng với Thúy Vân - một cô gái 15-16 tuổi (mà theo tâm thức dân gian gọi là tuổi tròn trăng), cái tuổi cập kê, chuyển giai đoạn cuộc đời từ cô gái bé bỏng thành thiếu nữ xuân thì.

Một chi tiết khá thú vị nữa để ta có thể hiểu thêm về cái trăng này.

Trong khổ thơ tả vẻ khác nhau của 2 chị em, Nguyễn Du đã dùng chất liệu thiên nhiên mang đặc trưng cơ bản: Tuyết (mùa Đông), làn thu thủy (mùa Thu), nét xuân sơn (mùa Xuân). Nên, ta dễ dàng nhận thấy khuôn trăng đầy đặn sẽ là trăng (mùa Hè).

Vấn đề đặt ra là: Tại sao Nguyễn Du đã so sánh vẻ trang trọng khác vời của Vân với vẻ trang trọng khác vời của trăng mùa Hè lại còn so sánh thêm với nét ngài nở nang. Đây cũng là điều hết sức thú vị để ta có thể hiểu thêm nhãn quan tinh tế của Nguyễn Du khi quan sát giới tự nhiên. Thực ra, vẻ trang trọng khác vời của trăng hè là một vẻ đẹp tĩnh. Vì là tĩnh nên nó chưa lột tả hết cái vẻ động của con người, của Thúy Vân nên ông đã tiếp tục so sánh với nét trang trọng khác vời của con ngài - con bướm ngài, là con vật có sức ảnh hưởng lớn tới đời sống và giá trị thẩm mỹ của con người.

Như vậy, chúng ta cũng cần tìm hiểu và quan sát con ngài, hình ảnh của nó và tập tính loài của nó có những nét đặc trưng nào ảnh hưởng tới giá trị thẩm mỹ của con người.

 

NGÀI ĐỰC, NGÀI CÁI VÀ NÉT NGÀI

Tằm là một loài côn trùng biến thái vòng đời trải qua 4 giai đoạn phát dục: Trứng, tằm, nhộng (kén), ngài. Trứng nở thành tằm, rồi tằm ăn lá dâu (loại tằm ăn lá dâu), khoảng trên 23 ngày thì tằm không ăn nữa bắt đầu nhả tơ. Tằm nhả tơ ra từ miệng của nó và nhả từ ngoài vào trong. Lúc này tằm không còn là tằm nữa mà đã chuyển hóa thành nhộng. Khoảng 7 ngày sau nhộng chuyển hóa thành ngài và đục lỗ chui ra (Ngài là tên con bướm của tằm, màu trắng ngà).

Ngài đực sẽ tìm ngài cái giao phối. Sau khi giao phối xong thì ngài đực chết và ngài cái tiếp tục thiên chức của mình là đẻ trứng, đẻ trứng xong thì ngài cái cũng chết. Và vòng đời của tằm lại tiếp tục. Có nhiều loại tằm, ngài. Ví dụ, ngoài loại tằm ăn lá dâu còn có loại tằm cây sồi ăn lá sồi (xưa còn gọi là sòi) thì ngài (bướm) màu nâu, lớn hơn nhiều so với ngài (bướm) ăn lá dâu. Tơ của loại tằm này thô xấu nên áo sồi sợi thô, dày chứ không đẹp như lụa (tơ tằm ăn dâu). Người xưa, khi ươm tơ, tơ đẹp thì dệt lụa, còn tơ xấu thì cũng gọi là "sồi" để ví với loại kém chất lượng giống như tơ của tằm ăn lá sồi. Cây sồi cao to nhưng lá nó nhỏ, bề ngang lá khoảng 2 đốt ngón tay, quả nó nhỏ cỡ hạt ngô, hạt lạc, tròn và từng chùm nhỏ. Người ta lấy lá, vò lá để nhuộm quần áo màu đen.

Đó là 2 loại tằm chính ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống dệt lụa, làm vải ở miền Bắc Việt Nam và ảnh hưởng đến giá trị thẩm mỹ của con người mà chúng tôi sẽ nhắc lại ở mục sau.

Còn đặc tính con ngài (bướm ngài) nói chung có mấy điểm chính và khác với bướm thông thường như sau:

a. Râu xúc giác: xúc giác của con ngài thường có dạng sợi, dạng lược hoặc dạng cánh (vì thế người ta ví đôi lông mày như mày ngài). Xúc giác của con bướm đều có dạng chùy, tức đầu trên của xúc giác phình to rõ ràng.

b. Phần bụng: phần bụng của con ngài thì tương đối to, béo hơn bụng con bướm gầy, nhỏ, dài, mỏng manh.

c. Tư thế của cánh khi chúng đậu: ngài đậu thì 2 cánh ngang với lưng còn bướm đậu thì 2 cánh dựng đứng trên lưng.

d. Hành vi: đa số ngài hoạt động ban đêm và có tính hướng sáng tương đối mạnh, thường có hành vi "vồ đèn" giống thiêu thân. Đặc tính là bay cực nhanh, thường ít đậu và có đậu cũng chỉ vài giây rồi bay tiếp. Còn đa số bướm đều hoạt động ban ngày, bay lượn rập rờn, khi đậu thì rất lâu.

Giữa ngài đực và ngài cái có sự khác nhau:

Con ngài đực thân hình và bụng thuôn nhỏ hơn con ngài cái, còn ngài cái có thân hình mập mạp và cái bụng to hơn, nở nang hơn để chứa trứng thực hiện chức năng sinh sản. Phương thức tìm bạn tình của ngài cái rất độc đáo. Trên thân thể của ngài cái có một chất hoá học đặc biệt có tính kích thích hướng ngoại. Thông qua sự lan toả của chất này, nó dẫn dụ ngài đực ở nơi xa tới, sau đó giao phối. Theo thống kê, một con ngài cái chỉ tiết ra 1,2 mg chất kích thích đã có thể hấp dẫn một triệu con ngài đực bay tới. Có người đã từng thí nghiệm, khi tốc độ gió là 100m/ giây, ngài đực vẫn có thể cảm thấy chất kích thích hướng ngoại của một con ngài cái ở cách xa 4,5 km.

Như vậy, ta có thể kết luận đặc tính cơ bản của con ngài cái như sau:

Ngài cái to lớn hơn, phần bụng nở hơn ngài đực - tức là nở nang. Nó hấp dẫn, lôi cuốn và tỏa hương đặc biệt thu hút bạn tình. Liên tục bay nhanh, đậu ít giây rồi lại bay.

Chúng ta hãy bàn qua về kinh nghiệm chăn nuôi tằm để lấy tơ. Sự phân biệt con ngài đực và con ngài cái cũng có ý nghĩa quyết định trong kỹ thuật nhân giống tốt để tăng số lượng, chất lượng tơ và các yếu tố liên quan đến nghề nuôi tằm. Theo kinh nghiệm dân gian, người ta chọn những chiếc kén to và đều để riêng ra một nơi làm giống. Những con nhộng tằm trong kén khi đủ lớn và đủ thời gian hóa thành con bướm ngài có cánh. Con ngài cắn tổ kén chui ra ngoài. Người nuôi tằm đặt con ngài cái trên tờ giấy bản rồi úp một chiếc bát để giữ nó chỉ đi lại trong vòng cái bát. Con ngài đẻ trứng trong vòng cái bát được úp, rồi trứng lại nở ra tằm. Bên cạnh việc chọn giống tốt, người ta lại cần phải chọn con đực, bắt riêng ra để làm thuốc. Theo người xưa, những con đực thường đồng loạt chui ra khỏi kén trước con cái và thường vào khoảng 5 giờ sáng. Còn con cái chui ra khỏi kén muộn hơn khoảng 1 tiếng sau.

Tuy biết đặc tính ngài đực và ngài cái về thời gian là vậy, nhưng cũng vẫn phải để chúng giao phối để con cái thực hiện thiên chức sinh sản của mình. Nên việc lựa chọn con đực, con cái theo thời gian cũng không phải là phương cách hữu hiệu. Mặt khác, thói quen tính thời gian xưa không như chúng ta ngày nay, từ 5h -7 h sáng là giờ Mão, nên vô hình trung việc tính giờ chui ra khỏi kén của con đực và con cái đều là giờ Mão cả, nên việc căn cứ vào giờ để chọn con đực không có giá trị lắm mà vẫn phải căn cứ vào hình thể của chúng để phân biệt con đực, con cái. Tức là nhìn thấy con nào có cái bụng nở nang và thân hình to, mập mạp thì biết ngay đó là con cái và con gầy hơn là con đực. Do vậy, khi dân gian gọi con ngài cái là - con ngài nở nang - là xuất phát từ nghề nghiệp và kết quả của kinh nghiệm nghề nghiệp vậy.

Thế nào là nét ngài:

Vì con ngài quan trọng như vậy trong đời sống con người mà nó gần gũi với con người. Những đặc tính của nó ăn hằn trong tâm trí người lao động và trở thành giá trị thẩm mỹ, cách nói ví von, ước lệ về những đặc tính của nó trong đời sống tinh thần con người.

Từ sự quan sát cái cách bay nhanh của con ngài giống con thiêu thân lao vào ánh sáng và cứ đậu vài giây rồi lại bay không ngừng nghỉ nên nó tạo cho người quan sát một hình ảnh thẩm mỹ: Vui tươi, nhí nhảnh. Và nó vui tươi, nhí nhảnh vì có được một thế giới mới tươi đẹp, một không gian rộng mở và một giai đoạn mới cuộc đời của tằm.

Một đặc điểm quan trọng nữa trong tập tính loài của con ngài là khi chui ra khỏi kén, con đực đủ lông, cánh sẽ lao đi tìm con cái khi con cái tỏa mùi hương thu hút bạn tình và chúng xúm xít, quấn quýt, quây quần nhau để giao phối.

Vì vậy hình thành một cách nói ước lệ: Nét ngài - nhằm diễn tả cái nội dung tươi vui, nhí nhảnh và quấn quýt, quây quần bên nhau của con người.

Do đó, khi ví von ai đó, hay những nam thanh nữ tú mà muốn diễn tả cái vui tươi, nhí nhảnh, quấn quýt nhau của họ, người ta có thể dùng ngôn từ hay hình ảnh ước lệ: Nét ngài.

Điều này là hết sức đơn giản và phổ biến trong ngôn ngữ dân gian mà ngày nay vẫn hình thành cách nói hình ảnh hay ngôn từ ước lệ này (điều này nó cũng giống quy luật muôn đời, ở thời nào cũng đều tồn tại cách dùng ngôn từ ước lệ - diễn tả một giá trị thẩm mỹ).

Ví dụ: Thời nay, để diễn ta ai đó có vẻ thơ ngây, đáng yêu hay đặc biệt là các cô gái mới lớn, còn ngây thơ trong trắng thì chúng ta có thể nói: cô ấy có vẻ "thỏ non", cô ấy có vẻ "nai tơ", hay nói ngắn hơn là cô ấy "thỏ non" quá, hay "nai tơ" quá. Hoặc, để phê phán ai đó quá lứa mà còn làm bộ thơ ngây, trong trắng thì nói "giả nai" thay vì "cưa sừng làm nghé". Hay để phê phán trong quan hệ, ai đó có tính bắng nhắng thì người ta nói: anh (cô) có nét khỉ đấy. Tức là ví với nét tính cách đặc trưng của khỉ - bắng nhắng, mà người ta hay quan sát thấy. Chúng ta có thể thấy một loạt ngôn từ ước lệ dạng này trong đời sống thường ngày như: Cậu "ếch" nó vừa thôi; Đúng là sư tử (cái) Hà Đông...

Thế nào là nét ngài nở nang?

Con ngài nở nang là con ngài cái, nên nói nét ngài nở nang là nét ngài cái. Bởi ngài cái có thêm một đặc tính hết sức nổi bật. Ngoài cái vẻ cần ước lệ là - vui tươi, nhí nhảnh của tính cách con ngài nói chung, thì ngài cái có mùi hương và sức hấp hấp dẫn, quyến rũ, thu hút bạn tình, bạn khác giới rất mạnh. Như vậy khi nói nét ngài là người ta nhấn mạnh yếu tố: vui tươi, nhí nhảnh, quyến rũ, hấp dẫn.

Và đương nhiên, khi sử dụng hình ảnh hay ngôn từ ước lệ này, người ta phải dùng trong trường hợp cần phân định, cần xác định giới tính trong quan hệ, hoàn cảnh cụ thể. Tức là, không ai dùng nét ngài cho trường hợp nam giới cả.

Hiện tượng dùng hình ảnh, ngôn từ ước lệ cho phạm vi chung và cho phạm vi riêng theo giới tính không phải là không phổ biến trong dân gian.

Ví dụ: Khi chúng ta sử dụng thành ngữ "ba chìm bảy nổi" để diễn đạt cái thân phận long đong lận đận của con người, của đời sống nói chung là không có vấn đề gì phải bàn cãi. Nhưng tùy trường hợp, văn cảnh cụ thể, trong bối cảnh cần phân biệt nam, nữ thì người ta phải dùng chính xác là: với nam, đàn ông - "ba chìm bảy nổi" và với phụ nữ, đàn bà thì dùng - "ba chìm chín lênh đênh".

Chúng tôi xin đơn cử một ví dụ sử dụng thành ngữ này, như Phan Khôi đã dùng với chính ông - một người đàn ông trong bài "chép gửi người tri kỷ" như sau:

Gẫm thân thế ba chìm bảy nổi - Lại phen này lạc lối tới đây - Một đêm cảnh vội đổi thay - Rồi ra sao nữa sau này trăm năm.

Nhưng cũng chính với Phan Khôi khi lên tiếng bảo vệ cho nữ quyền với ý nghĩa đàn ông chẳng là cái gì đáng để đàn bà chiều chuộng, hầu hạ, ông cũng sử dụng thành ngữ trên, nhưng cho nữ giới, ông dùng vế  "ba chìm chín lênh đênh" và lấy số 9 để diễn đạt:

Chính chuyên lấy được chín chồng, - Vò viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi. - Không ngờ quang đứt lọ rơi, - Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng.

Tuy nhiên, bạn đọc sẽ còn phân vân và thắc mắc với từ ­nét trong nét ngài. Tức là vấn đề ngôn ngữ, khả năng kết hợp ngữ nghĩa của từ nét trong nét ngài có vẻ khó hiểu với thời nay. Đây cũng là điều hết sức bình thường bởi sự phát triển của ngôn ngữ ngày nay khiến chúng ta có quá nhiều từ để diễn đạt và phương cách diễn đạt, quen dùng cũng khác đi nhiều.

Mặt khác, đối với giới nghiên cứu ngôn ngữ thì có một vấn đề khó khăn là: từ nét là từ Nôm và chỉ có trong chữ Nôm (không có trong chữ Hán) nên trong từ điển, ngữ nghĩa của từ nét còn nhiều hạn chế. Nên chữ nét ngài cũng trở thành khó hiểu với chính giới ngôn ngữ.

Giải quyết, phân tích rõ vấn đề này, chúng tôi xin trình bày ở trương mục sau.

TRANG TRỌNG KHÁC VỜINÉT NGÀI NỞ NANG

Như trên, chúng tôi đã phân tích: vẻ trang trọng khác vời của trăng Hè là một vẻ đẹp tĩnh. Vì là tĩnh nên nó chưa lột tả hết cái vẻ động của con người, của Thúy Vân nên Nguyễn Du đã tiếp tục so sánh với nét trang trọng khác vời của con ngài - con bướm ngài, mà cụ thể là con ngài cái - ngài nở nang.

Điều đó nghĩa là vẻ trang trọng khác vời của Thúy Vân còn mang thêm (được giải thích thêm) vẻ động là nó tươi vui, nhí nhảnh, sôi động và đặc biệt hấp dẫn, thu hút, quyến rũ với các chàng trai.

Sở dĩ Nguyễn Du so sánh vẻ đẹp tính cách của Thúy Vân với vẻ đẹp mang giá trị thẩm mỹ của con ngài cái là vì giữa Thúy Vân - một cô gái xuân vừa đương thì có những nét tương đồng với con ngài cái.

Vân khác vời (khác với chính mình) tức là Vân chuyển giai đoạn của đời người từ thiếu nhi thành thiếu nữ - một thế giới mới mở ra trước mắt. Con ngài cũng khác vời, nó được chuyển hóa, thoát thai từ tằm - cũng khác với chính mình (tằm), một giai đoạn mới của đời tằm là ngài và thế giới mới rộng mở trước mắt ngài.

Vân ở tuổi 15-16, tuổi cập kê sắp thực hiện thiên chức phụ nữ là lấy chồng, sinh con, duy trì nòi giống. Con ngài cái cũng vậy, giai đoạn ngài của đời tằm là chuẩn bị tìm bạn tình, giao phối, đẻ trứng duy trì nòi giống.

Vân ở giai đoạn mới cuộc đời là phát dục, hình thể và tâm sinh lý thay đổi nên ở giai đoạn này, người thiếu nữ có những vẻ đẹp và sức quyến rũ kỳ lạ thu hút bạn khác giới. Con ngài cái cũng vậy, hình thể thay đổi, có cánh, tươi vui, nhí nhảnh và tỏa mùi hương, hấp dẫn bạn tình để giao phối.

Hình ảnh con ngài cái nó trang trọng khác vời thế nào với những giá trị thẩm mỹ ước lệ của con ngài cái mà con người phú cho nó thì vẻ trang trọng khác vời của Thúy Vân cũng tương đồng như vậy.

 

VẺ ĐẸP CỦA THÚY KIỀU SẮC SẢO, MẶN MÀ NHƯ THẾ NÀO

Thúy Kiều khác với Thúy Vân mà Nguyễn Du đã chỉ ra rằng:

Kiều càng sắc sảo mặn mà.

Và cái vẻ sắc sảo, mặn mà ấy được Nguyễn Du giải thích nó giống như làn nước mùa Thu, nó mang nét (đặc trưng) của núi khi vào Xuân.

Như vậy, muốn hiểu được vẻ sắc sảo, mặn mà này ta phải quan sát và cảm nhận được cái làn nước mùa Thu, cái núi khi vào Xuân nó đẹp thế nào, nó gợi những cảm xúc mạnh mẽ, đặc trưng nào cho thẩm mỹ của con người. Điều này phụ thuộc vào sự cảm nhận trực tiếp và sự tinh tế xúc cảm của người quan sát nó.

Ví dụ:

- Làn nước Thu so với làn nước các mùa thế nào, nó uyển chuyển, mềm mại, nó lững lờ, mát mẻ, sáng trong, trong veo khơi gợi lòng người thổn thức ra sao?...

- Núi vào Xuân thì nó khác hẳn với núi các mùa ra sao. Nếu núi vào các mùa như vẻ sừng sững mùa Hè, khô trọc, héo tàn mùa Thu, âm u, im lìm ghê sợ mùa Đông thì nó trở nên gần gũi, tươi sáng, đằm thắm, thanh đạm, dịu dàng, bừng lên hương sắc mùa Xuân ra sao?...

Đương nhiên, hai vẻ đẹp của làn nước Thu và núi vào Xuân là tài sản thẩm mỹ thiên nhiên tác động mạnh đến thơ ca xưa. Nên nhiều nhà thơ đã dùng nó để ví von với vẻ đẹp của con người, với cảm xúc, tính cách , tâm trạng con người. Tùy sự tinh tế của nhà thơ khi quan sát mà khai thác. Người thì ví với ánh mắt, đôi mắt, khóe mắt, lông mày, người thí ví với tâm trạng nhân vật...

Bài thơ Đề mỹ nhân đồ của Viên Giác đời Nguyên có câu:

"Vọng hạnh mâu ngưng thu thủy, Ỷ sầu mi thốc xuân sơn"

(Khóe mắt đẹp đang ngóng trông, như đọng làn nước mùa thu; lông mày buồn trĩu xuống như núi xuân chụm lại).

Bài thơ Đường Nhi Ca của Lý Hạ đời Đường có câu:

"Nhất song đồng nhãn tiễn thu thủy".

(Một cặp mắt như cắt vào nước mùa Thu).

Bản N5: "Nhãn quang thu thủy, mi đạm xuân sơn"

(Mắt sáng như nước Thu, mày thanh đạm như núi Xuân).

Trong truyện Tây Sương: "Tha vọng xuyên liễu doanh doanh thu thủy, túc tổn liễu đạm đạm xuân sơn"

 (Người ấy trông mong mòn mỏi cả nước mùa Thu đầy đầy, buồn bã héo cả núi mùa Xuân nhàn nhạt).

Điều chúng tôi muốn lưu ý là các câu thơ trích dẫn trên không phải là một khuôn thước, giống như nhau và nội dung của nó cũng khác nhau một trời một vực. Do đó, không thể giải thích theo kiểu cho rằng Nguyễn Du đã mượn câu thơ của ai đó để tả vẻ đẹp Thúy Kiều và suy diễn Nguyễn Du tả đôi mắt và lông mày cũng giống họ.

Việc quan trọng là cần tìm hiểu Nguyễn Du đã khai thác hình ảnh đặc sản thiên nhiên ấy ở khía cạnh nào và dùng nó để ví von với cái gì của con người: vẻ đẹp tính cách, tâm trạng, vẻ đẹp bộ phận cơ thể như mắt, ánh mắt, khóe mắt, lông mày...

Với chúng tôi: Vẻ sắc sảo, mặn mà của Thúy Kiều mềm mại, uyển chuyển và trong sáng như làn nước mùa Thu. Nó gần gũi, đằm thắm và quyến rũ như núi vào Xuân.

(Nguyễn Du đã dùng hai hình ảnh, chất liệu thiên nhiên này để tả vẻ đẹp tính cách của Thúy Kiều chứ không phải để ước lệ hay tả đôi mắt và lông mày Thúy Kiều vì trong câu thơ của Nguyễn Du không có danh từ mắt, khóe mắt hay mày làm chủ từ).

Còn thực sự nó ra sao thì tùy vào sự cảm nhận và quan sát tinh tế của bạn đọc khi quan sát hai hình ảnh thiên nhiên này.

KHI KHÓE HẠNH KHI NÉT NGÀI LÀ NHƯ THẾ NÀO?

Thông thường, các chú giải Truyện Kiều về câu này là:

“Chơi cho liễu chán hoa chê,“Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.1

“Khi khoé hạnh, khi nét ngài,2 “Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa.3

“Đều là nghề nghiệp trong nhà,4 “Đủ ngần ấy nết mới là người soi.”5

Chúng ta hãy bàn về chữ khóe. Khóe, hiểu đơn giản là những đường, những nét bắt góc, xuất phát từ một điểm. Để nói về những cái khóe trên cơ thể người thì có rất nhiều như khóe chân, khóe tay và trên khuôn mặt thì có 3 cái khóe cơ bản là khóe mắt, khóe miệng, khóe má (lúm đồng tiền). Nguyễn Du chỉ viết khóe hạnh tức là khóe của hoa hạnh chứ Nguyễn Du không nói về hoa hạnh. Điều mà các chú giải trong các bản Truyện Kiều có một đặc điểm chung là liên tưởng tới các cái khóe trên khuôn mặt và cho rằng chữ hạnh là để ví cái khóe đó đẹp như hoa hạnh. Khi liên tưởng như thế chúng ta khó có thể đưa ra một đáp án chính xác nào cho những cái khóe trên cơ thể người nên sự mâu thuẫn trong các chú giải trên khó có thể giải quyết. Chúng tôi không bác bỏ rằng chức năng thi ca và văn chương là gợi sự liên tưởng và tư duy bằng hình ảnh. Nhưng thực sự các cách liên tưởng truyền thống trong các chú giải trên có thích hợp không, bởi sự liên tưởng đó đi đến kết luận là giải thích khóe hạnh là khóe mắt hay khóe miệng, nét ngài là nét lông mày tức là về mặt văn phạm là danh từ chỉ bộ phận trên cơ thể người. Rồi sau đó lại phải giải thích thêm và phú thêm vào văn bản các động từ như nhoẻn, nhếch ( miệng) hay liếc, đánh (mắt), nhíu, dướn (mày) mà Nguyễn Du không hề viết như vậy trên văn bản, cũng như sự bất cập của vấn đề này chúng tôi đã phân tích ở mục trên.

Vậy, chúng ta hãy xét nghĩa khóe hạnh một cách đơn giản là khóe của hoa hạnh và tư duy bằng hình ảnh để hiểu khóe hạnh là hình ảnh ước lệ ra sao và có thể diễn giải theo phương thức hành động như thế nào?

Tên Việt: ngân hạnh

Tên Hoa: 銀杏 (ngân hạnh),

公孫樹 (công tôn thụ),

白果樹 (bạch quả thụ)

Tên Anh: ginkgo, maidenhair tree

Tên Pháp: ginkgo

Tên khoa học: Ginkgo biloba L.

Họ: Ginkgoaceae

 ngân [sc ] bộ kim () 1. Bạc, một loài kim sắc trắng dùng để đúc tiền và làm đồ trang sức. 2. Trắng. Như ngân hạnh 銀杏 hạnh trắng. 3. Họ Ngân.

 hạnh - bộ mộc () 1. Cây hạnh. 2. Ngân hạnh 銀杏 cây ngân hạnh, quả ăn được, hạt nó gọi là bạch quả 白果. 3. Đức Khổng Tử ngồi dạy học ở giàn hạnh, vì thế nên thường dùng chữ hạnh  để gọi về cửa thầy học. 4. Hạnh viên 杏園 vườn hạnh. Nhà Đường cho các học trò đỗ tiến sĩ vào ăn yến ở vườn hạnh nên tục mới gọi các người đỗ là hạnh lâm 杏林. (Nguồn: Tự Điển Thiều Chửu Online)

Rõ ràng, nhìn hình ảnh này ta có thể cảm nhận các đặc trưng của khóe hạnh như sau: Biến hóa, biến ảo, phong phú đa dạng hay cảm nhận theo phương thức động: lúc thế này, lúc thế nọ và lúc thế kia.

Vì vậy, trong dân gian nói khóe hạnh (khóe của hoa hạnh) là dùng tính chất đặc trưng của nó để ước lệ cho sự biến hóa da dạng, cho sự phong phú không nhàm chán và cho sự nhấm nhẳng, đòi hỏi lúc thế này, lúc thế nọ, lúc thế kia của cái tính nhấm nhẳng, nhõng nhẽo, khó chiều của ai đó mà thường là của các cô gái hay nũng nịu, või vĩnh không đâu...

Như vậy, chúng ta có thể hiểu đơn giản:

Khi khóe hạnh: là Tú Bà dạy cho Thúy Kiều và các cô gái ở lầu xanh rằng phải thể hiện phong cách như khóe hạnh, cái vẻ phong phú, đa dạng, biến hóa lúc thế này, thế nọ, thế kia, hay nũng nịu, vòi vĩnh một cách thơ ngây, mộng mơ, đáng yêu.

Khi nét ngài: là phải tỏ ra vui tươi, nhí nhảnh, hấp dẫn và quấn quýt bên khách.

TỔNG KẾT CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÚNG TÔI

1. Không có cơ sở logic văn bản Truyện Kiều để khẳng định Nguyễn Du đặc tả trực diện vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân vì đã dùng thành ngữ đẹp "mười phân vẹn mười" - có nghĩa là không phải giải thích và miêu tả gì nữa.

Do đó:

+ Không thể cho rằng Nguyễn Du tả khuôn mặt của Thúy Kiều và Thúy Vân.

+ Không thể giải thích nét ngài là nét mày ngài hay nét lông mày

+ Không thể giải thích nét xuân sơn là lông mày đẹp hoặc thanh đạm như núi vào xuân...

+ Không thể hiểu khuôn trăng là khuôn mặt

+ Không thể hiểu làn thuy thủy là ánh mắt, khóe mắt...

2. Nguyễn Du chỉ giải thích sự khác nhau về tính cách của hai chị em và sự khác nhau về phẩm chất của họ.

+ Giải thích nguồn gốc vẻ đẹp là từ thiên nhiên (bằng cách so sánh với cái đẹp của thiên nhiên) - tiêu chí về cái đẹp, giá trị thẩm mỹ trong cổ thi Việt Nam.

3. Nét ngài và khóe hạnh là ngôn từ ước lệ, hình ảnh ước lệ

+ Ngài nở nang là con ngài cái và nét ngài nở nang là nét ngài cái.

Nét ngài: Diễn tả cái vui tươi, nhí nhảnh, quấn quýt bên nhau.

Nét ngài cái: Diễn tả cái vui tươi, nhí nhảnh, hấp dẫn, quyến rũ các chàng trai.

+ Khóe hạnh là khóe của hoa hạnh, không phải là khóe mắt, khóe miệng, khóe má...

Khóe hạnh: Diễn tả cái phong cách đa dạng, phong phú hay nũng nịu lúc thế này, lúc thế nọ, lúc thế kia của các cô gái.

4. Vẻ đẹp trong và ngoài, tính cách và hình thức bên ngoài của Thúy Vân và Thúy Kiều là bức tranh thiên nhiên bốn mùa, là thể loại tranh Tứ Quý: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Mùa Xuân - núi vào xuân, Mùa Hè - trăng rằm, con bướm ngài, Mùa Thu - làn nước Thu, Mùa Đông - tuyết

Như vậy:

Từ mày ngài trong Truyện Kiều chỉ có ở câu:

Câu 927: Bên thì mấy ả mày ngài, Câu 2167: Râu hùm, hàm én, mày ngài, Câu 2274: Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.

Còn các câu: nét ngài, nét xuân sơn, nét thu... là đúng tinh thần văn bản, viết thế nào thì hiểu thế đó chứ không phải là nét mày ngài hay mày ngài hay nét lông mày hoặc khóe mắt, ánh mắt...

ĐÔI ĐIỀU VỀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NÉT TRONG TRUYỆN KIỀU

Như trên chúng tôi đẵ trình bày rằng, đối với giới nghiên cứu ngôn ngữ thì có một vấn đề khó khăn là: từ nét là từ Nôm và chỉ có trong chữ Nôm (không có trong chữ Hán) nên trong từ điển, ngữ nghĩa của từ nét còn nhiều hạn chế. Nên chữ nét ngài cũng trở thành khó hiểu với chính giới ngôn ngữ.

Sự phát triển ngữ nghĩa của từ nét  hay khả năng kết hợp ngữ nghĩa từ nét với các từ khác cũng là một vấn đề mang tính lịch sử. Điều này  thể hiện rõ nét trong Từ điển.

Đại Nam Quốc Âm Tự Vị là quyển từ điển Việt Nam đầu tiên và do người Việt đầu tiên soạn, ấn hành năm 1895 và 1896. Đó là ông Huỳnh Tịnh Của . Trước thời điểm này, có mấy từ điển là: Việt Bồ La của Đắc Lộ 1651, Việt La của Taberd 1838, Việt Pháp của Legrand de la Liraye, 1868, Việt La của Theurel-Taberd 1877, La Việt của Ravier 1880, Pháp Việt của Trương Vĩnh Ký 1887, Việt Pháp của Génibrel 1893.

Theo Huỳnh Tịnh Của, ban đầu, ông muốn làm tự vị Việt Pháp. Sau khi viết xong phần tiếng Việt và dự định cộng tác với mấy người Pháp để viết phần tiếng Pháp. Thế nhưng công việc gặp nhiều khó khăn và đòi hỏi một thời gian quá dài. Vì thế nên bỏ ý định ban đầu mà chỉ để phần tiếng Việt để thành Tự Vị hay là từ điển tiếng Việt mà thôi. Tự vị được hoàn chỉnh sau hơn bốn năm kiên trì làm việc.

Đây là thành công, một danh dự lớn lao, vẻ vang của người Việt, đánh dấu sự phát triển quan trọng trong việc sử dụng chữ Quốc Ngữ Việt Nam. 

Tờ báo sử dụng Việt Ngữ đầu tiên là tờ Gia Định Báo được phát hành năm 1865. 30 năm sau, Đại Nam Quốc Âm Tự Vị ra đời, mở đường cho những từ điển tiếng Việt phát triển về sau. Đại Nam Quốc Âm Tự Vị được soạn theo tiếng nói miền cực Nam - Việt Nam, một vùng đất mới trong thời kỳ đó, cho nên nó mang nhiều tiếng địa phương và có những hạn chế nhất định.

Chúng tôi chép lại mục chữ nét trong Quốc Âm Tự Vị để chúng ta tiện đối chiếu (lưu ý: năm 1895 tức là sau năm sinh Nguyễn Du - 1765 là 130 năm).

Như vậy, với nội dung ngữ nghĩa chữ nét trong Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của liệu có thể giải thích các trường hợp kết hợp ngữ nghĩa của từ nét mà Nguyễn Du đã dùng trong Truyện Kiều hay không?

Câu 20 -1213: ...nét ngài nở nang; ...khi nét ngài

(ngài: tỷ dụ lông mày - nét mày ngài? và ngài là con ngài - nét con ngài)

Câu 25: ...nét xuân sơn (xuân sơn: tỷ dụ cho cái gì? xuân sơn: núi vào xuân - nét núi vào xuân)

Câu 104: Lại càng ủ dột nét hoa (hoa: tỷ dụ cho mặt người đẹp? - nét mặt?. Hoa: là bông hoa - nét bông hoa - nét hoa)

Câu 280: Có hiên lãm thúy nét vàng chưa phai. (hiên lãm thúy có hoa văn, có chữ kẻ vẽ màu vàng: - nét màu vàng của hoa văn, chữ viết)

Câu 348: Chiều Xuân dễ khiến nét Thu ngại ngùng. (Mùa Thu: tỷ dụ cho cái gì? Mùa Thu - nét mùa Thu).

Câu 400: Mặt khen nét bút càng tươi.

Câu 638: Nét buồn như cúc điệu gầy như mai.

Câu 1218: Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng. (Nguyệt: tỷ dụ cho cái gì? mặt hay lông mày? (nét mặt, nét lông mày?). Nguyệt: trăng - nét trăng

Câu 1245: Đôi phen nét vẽ câu thơ

Câu 638: Nét buồn như cúc điệu gầy như mai...

Rõ ràng là từ điển của Huỳnh Tịnh Của với nội dung ngữ nghĩa của từ nét chủ yếu là “đường, vạch bằng bút” và điều, phép... (yếu tố, thuộc tính của đối tượng) không thể giải thích rõ ràng các trường hợp sử dụng từ nét của Nguyễn Du mặc dù ra đời sau Truyện Kiều khoảng 100 năm.

Nếu hiểu nội dung ngữ nghĩa trong Từ điển là sách ghi từ ngữ, cách sử dụng và tiếng nói của một thời đại. Nó phản ảnh tri thức của một thời đại. Trong hoàn cảnh sách viết của chúng ta không có nhiều, thì Quốc Âm Tự Vị của chúng ta như kim chỉ nam giải nghĩa. Cho nên, các học giả chú thích Truyện Kiều cùng thời Huỳnh Tịnh Của và sau đó ít năm vướng mắc trong việc chú thích chữ nghĩa Truyện Kiều nói chung và chữ nét trong nét ngài, nét nguyệt, nét thu, nét xuân sơn là hoàn toàn dễ hiểu. Và vì thế, các tranh luận ngữ nghĩa trong Truyện Kiều vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Và đương nhiên, từ nét không thể mất đi trong tiếng Việt. Nó tiếp tục phát triển, được sử dụng trong thời đại chúng ta như nội hàm và ngoại diên vốn có của nó. Và nó được các nhà biên soạn từ điển, ghi chép tiếng nói của thời đại bổ xung, được giải nghĩa đa dạng và rõ ràng hơn. Và với ngữ nghĩa của từ nét trong từ điển bây giờ, chúng ta có thể giải thích rõ ràng khả năng kết hợp của từ nét trong Truyện Kiều mà Nguyễn Du đã sử dụng. (Chúng tôi trích dẫn mục ngữ nghĩa từ nét trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên dưới đây.)

Điều này cho thấy Nguyễn Du là nhà ngôn ngữ học vĩ đại đến nhường nào. Điều đó cho thấy tư duy logic trong ngôn ngữ của Nguyễn Du đi trước thời đại của chính ông.

Bây giờ, ta hãy xét khả năng kết hợp ngữ nghĩa của từ nét trong mục 4 của Từ điển tiếng Việt - Hoàng Phê chủ biên. Tức là, khi từ nét kết hợp với chủ thể đối tượng nhằm chỉ ra cái điểm cơ bản tạo nên, khắc họa nên cái chung của đối tượng. Ví dụ: nét + tác phẩm → nét chính của tác phẩm.

Nét: Đối tượng       - Điểm cơ bản tạo nên, khắc họa nên cái chung đối tượng

                                 - nét nổ bật của đối tượng

         + Con ngài      Tập tính loài của con ngài - bay nhanh, ít ngừng nghỉ,

                                 hướng sáng, xúm xít giao phối...

         + Con ngài cái (ngài nở nang)

                                 - Tập tính loài ngài, toát ra chất hóa học,

                                 hương vị cực mạnh thu hút ngài đực.

         + Con người    - Tập tính loài người: sinh tồn, có trí tuệ, hành vi xã hội

                                 - đạo đức, văn minh (có tính người).

         + Người khỏe mạnh

                                 - Da dẻ hồng hào, hành động dứt khoát, hừng hực,

                                 nhanh chóng...

         + Người ốm yếu

                                 - Da dẻ tái nhợt, hành động lờ đờ, lề mề...

         + Mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông

                                 - Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu tàn, Đông tàng.

                                 - Tính chất ước lệ với giá trị thẩm mỹ con người:

                                 Xuân vui.., Thu sầu, buồn, nhớ nhung, tương tư...

                                 Đông cô đơn, lạnh lẽo, cách trở...

         + Hoa, bông hoa

                                 - Đẹp, tươi thắm sắc màu, rạng rỡ, ngát hương...

         + Phụ nữ, con gái

                                 - Mềm mại, uyển chuyển, yếu đuối.

         + Đàn ông, con trai

                                 - Cứng cáp, thô, mạnh mẽ.                             

Ví dụ: trong đời sống thường ngày, ta nhận xét một chàng trai mà lại có một số biểu hiện của phụ nữ: cậu ấy có cái vẻ con gái - tức là nói đến cái bộc lộ ra bên ngoài hay cậu cấy có cái nét con gái - tức là nói cả cái vẻ bên ngoài và đặc trưng bên trong - yếu đuối...

Hoặc có một loài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập vào trái đất. Vẻ ngoài không giống bất kỳ động vật nào hay con người trên trái đất. Nhưng lại có hành vi cư xử văn minh, có trí tuệ... thì ta nói: nó có nét người, tính người - tức là có đặc trưng của con người. Vì thế, ta gọi là người ngoài hành tinh.

Bây giờ chúng ta phân tích câu:

Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.

Trước tiên, chúng ta hãy điểm qua đôi chút tâm trạng Kiều gặp Kim Trọng trong tiết Thanh minh. Khi về, một mình lặng ngắm bóng nga, Kiều nghĩ về Kim Trọng - rộn đường gần với nỗi xa bời bời (tâm trạng rối bời bời):

Người mà đến thế (Kim Trọng) thì thôi, - Đời phồn hoa (Thúy Kiều) cũng là đời bỏ đi. (Sao lại có người trai đến thế chứ! Thế này thì đời phồn hoa cũng chẳng ý nghĩa gì, bỏ đi mà thôi!)

Rồi nàng than, băn khoăn:

Người đâu gặp gỡ làm chi? (Để khổ một đời hoa chăng?) Trăm năm (1) biết có duyên gì hay không? (Trời có định duyên cho ta với người này không? Hay đây có phải là cái duyên Trời định không?)

(1)Trăm năm = trời định. Xin xem mục Trăm năm: Truyện Kiều dưới cái nhìn con số và thành ngữ số dân gian - Trần Gia Anh - Trần Đình Tuấn. NXB Thanh Hóa.

Cái tâm trạng khởi điểm một cảm xúc yêu đương, bén màu tương tư này của Thúy Kiều mang nỗi băn khoăn lo buồn chỉ sợ mình không xứng đôi, chỉ sợ Trời không định. Cái tâm trạng này còn bị đau khổ, sầu thảm hơn nữa khi gặp phải giấc mơ con ma Đạm Tiên ám ảnh:

Cứ trong mộng triệu mà suy, Phận con thôi có ra gì mai sau! Cho nên, nỗi riêng, riêng chạnh tấc riêng một mình.

Toàn bộ cái tâm trạng dấy lên một nỗi niềm yêu đương, sầu lo, tương tư ấy của Thúy Kiều cho đến khi gặp Kim Trọng được Nguyễn Du khắc họa lại bằng hai tiếng: nét thu, trong câu Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.

 Chữ chiều ở câu này không phải là buổi chiều Xuân mà là chiều (hướng) Xuân, nó giống cái chữ chiều trong câu "Có chiều phong vận có chiều thanh tân". Chiều xuân là cái vẻ Xuân, là cái men tình, sự ham muốn và những rung động tình yêu đang đốt cháy con tim, lộ ra ở đôi mắt, ở giọng nói, nụ cười, cử chỉ, dáng điệu và là cái niềm vui, mừng rỡ khi đã tìm ra, vượt qua được nấc thang đầu tiên "một cái cớ - cái kim thoa" để đôi trai gái có tình ý được gặp nhau.

Như vậy, cái chiều Xuân, chiều vui tươi, mừng rỡ đang xóa đi cái tâm trạng sầu lo, băn khoăn của Thúy Kiều.

Do đó, nét Thu là cái nét nổi bật, đặc trưng, khắc họa lên tính chất Thu - sầu, buồn, nhớ nhung, tương tư trong Thúy Kiều đương nhiên sẽ phải ngại ngùng (ngượng ngùng) nhường chỗ cho niềm vui, hân hoan đang lớn dần trong đôi uyên ương.

Xem tiếp Bài 5...

Nhóm Chủ Trương: TS. PHAN TỬ PHÙNG, HỒ NGỌC MINH, TRẦN ĐÌNH TUẤN
© Copyright 2012    http://vietnamsuhoc.com/    All right reserved.   E-mail:info@vietnamsuhoc.com    Designed by Ho Quang.