Trang Văn Học & Lịch Sử Việt Nam
TRUYỆN KIỀU DƯỚI GÓC NHÌN CON SỐ & THÀNH NGỮ SỐ DÂN GIAN

Bài 10

Tiếp theo Bài 9 "TRUYỆN KIỀU DƯỚI GÓC NHÌN CON SỐ & THÀNH NGỮ SỐ DÂN GIAN" - "TRUYỆN KIỀU DƯỚI GÓC NHÌN CON SỐ & THÀNH NGỮ SỐ DÂN GIAN"

2. SỐ 3 - SỰ ĐỦ TỐI THIỂU CỦA MỘT NỘI DUNG, MỘT VẤN ĐỀ, MỘT TÍNH CHẤT. CÁCH DÙNG SỐ 3 TRONG TRUYỆN KIỀU

Như trên chúng ta đã phân tích:

Số 3:

Phương Tây: đại diện cho đầu, giữa, cuối (thành phần của một nội dung, một quá trình).

Phương Đông: 1, 2 không thể là số, chưa là số. 3 mới là số (2+1=3) cho nên một nội dung, một quá trình gồm các thành phần, giai đoạn phải khởi từ 3 yếu tố (tối thiểu).

Do đó, trong dân gian Việt Nam, số 3 là tượng số để diễn đạt sự đủ một nội dung, một vấn đề, một tính chất...

Vì vậy, trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, tính ước lệ của số 3 phổ biến trong khắp ca dao, tục ngữ, thành ngữ, thơ ca, văn học và trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân Việt Nam xưa và nay.

Ví dụ:

Ba gian hai trái: Nói về nhà cửa sơ sài, nghèo túng.

Sự đủ với một căn nhà là ba gian (dùng số 3 để biểu thị), nhưng chỉ có hai trái thì thành nghèo túng (số 2 biểu thị sự chưa đủ).

Nếu nói: Ba gian ba trái - thì sẽ được hiểu là giàu có.

Ba gai ba đồ: ngang bướng, gây gổ, sinh sự.

Dùng số 3 để biểu thị sự đủ của gai, đồ nên hiểu là ngang bướng, gây gổ. Nếu nói ba gai hai đồ thì thành ra cũng thường thường, không phải loại ngang bướng, gây gổ nhiều lắm.

Ba ngày té re một ngày rắn cứt đã khoe ầm ầm.

Chỉ tính cách khoe khoang, vội vã, không chín chắn.

Sự đủ với một yếu tố ốm yếu, chẳng ra gì thì chỉ cần biểu diễn bằng con số 3, thế mà mới có 1 yếu tố khoẻ, tốt mà đã khoe khoang rồi.

Ba đánh một chẳng chột cũng què:  đề cao sức mạnh tập thể.

Nói sự đủ của một sức mạnh thì cũng dùng số 3 để biểu trưng.

Một nắng hai sương: Thời tiết ẩm ương.

(nghĩa khác: sự chịu đựng gian khổ từ sáng đến tối)

Để muốn nói cái nắng đầy đủ phải nói ba nắng. Mới chỉ có một nắng, còn lại hai sương thì chẳng thể nói là nắng, là khô ráo.

Trong Truyện Kiều có nhiều câu Nguyễn Du dùng cách nói số 3 sau đây:

A. Ngoài nghìn dặm chốc ba đông (543)

B. Ba thu dọn lại một ngày dài ghê (248)

C. Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân (620)

D. Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng (1352)

E. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (3252)

A. "NGOÀI NGHÌN DẶM CÁCH BA ĐÔNG" (543)

Theo bản Kinh đời Tự Đức, Nguyễn Quảng Tuân - Phiên âm - khảo dị, câu này là:

Ngoài nghìn dặm cách ba đông

Câu 543: Cách ba đông: Tản Đà chú rằng: "Có người nói là vì Kim Trọng đứng lập tự cho ông chú ấy, cho nên phải để trở ba năm". Thế mà mới có sáu tháng đã trở về Bắc Kinh và rồi... cưới ngay Thúy Vân!

Còn cách hiểu phổ biến là:

Ngoài nghìn dặm: đi xa hơn một nghìn dặm đường, tức là từ Bắc Kinh đến Liêu Dương hộ tang. Ba đông: ba mùa Đông, tức ba năm, là thời gian Kim Trọng phải để tang chú ruột, theo lễ giáo phong kiến thì hết thời gian ấy mới được lập gia đình.

Cái vấn đề gây tranh cãi, gây thắc mắc trong câu này là cách hiểu từ "ba đông". Vì không xác định được chắc chắn là 3 đông có phải là 3 năm hay không nên Tản Đà chú rằng "Có người nói là...", cách chú này chỉ là sự gợi ý, không dám khẳng định. Mặt khác, vì đinh ninh hiểu rằng 3 đông là 3 năm nên người chú giải mới đi tìm cách giải thích theo phong tục để tang "Kim Trọng đứng lập tự cho ông chú ấy, cho nên phải để trở ba năm". Cách giải thích theo phong tục này cũng không có cơ sở vững chắc vì Kim Trọng không phải để tang cha mà hộ tang ông chú. Việc để tang chú là phải 3 năm và không được cưới vợ trong 3 năm đó cũng không có cơ sở vững chắc, xác quyết theo phong tục. Cách giải thích trên chỉ để minh chứng cho cách hiểu 3 đông là 3 năm. Trên thực tế xã hội Truyện Kiều, Kim Trọng trở về sau nửa năm (6 tháng) rồi cưới Thúy Vân. Điều đó cho thấy chú thích theo hướng trên không thuyết phục.

Nếu hiểu ba đông là ba năm liệu có thuyết phục không khi có thể hiểu ba mùa đông là 9 tháng, có thể hiểu là 2 năm (mùa Đông năm ngoái đến năm nay là 1 năm, mùa Đông năm nay đến mùa Đông sang năm là 1 năm. Vậy chỉ 2 năm có 3 mùa Đông)...

Xét trong Truyện Kiều, Nguyễn Du dùng từ để chỉ thời gian là:

... Nửa năm hương lửa đang nồng,

... Cách năm, mây bạc xa xa,

... Chầy ra là một năm sau vội gì

... Năm năm hùng cứ một phương hải tần,

... Rằng ngày hôm nọ giao binh

... Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm,

... Tháng tròn như gửi cung mây,

... Tuần trăng thấm thoắt nay đà thêm hai.

Để chỉ thời điểm lễ hội:

... Thanh minh trong tiết tháng Ba

Để chỉ diễn biến thời gian theo mùa màng, khung cảnh thiên nhiên:

... Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân

...

Còn các từ liên quan đến cách nói số với mùa: 3 đông, 3 thu, 3 xuân đều không liên quan đến yếu tố thời gian trong văn cảnh Truyện Kiều.

Vì vậy, không thể diễn tả một vấn đề thời gian lại có thể để người đọc hiểu là 3 tháng, 9 tháng, 3 năm, 2 năm...

Như vậy, chú thích ba đông là ba năm là chú thích không tường nghĩa, không có cơ sở.

Mặt khác, không thể cho rằng Nguyễn Du dùng ba đông, ba xuân, ba thu từ các sách Trung Quốc, cổ thi, hay điển tích khác nhau mà từ đó hiểu ba đông là 3 năm, ba xuân là 3 tháng xuân hoặc công sinh thành của cha mẹ, ba thu là 3 năm... một cách không thống nhất về thời gian, không đồng nhất về sự việc.

Cuối cùng câu hỏi đặt ra là tại sao để diễn tả 3 năm, Nguyễn Du lại phải dùng "mùa" để chỉ thời gian?

Do đó, phải tìm hiểu lại ba đông được Nguyễn Du sử dụng như thế nào, trong văn cảnh nào và hiểu ba đông là thế nào?

Đây là một câu (hay mẫu câu) dùng số để diễn đạt tính chất ước lệ của một nội dung.

Trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam có mẫu câu sử dụng cách nói số rõ ràng như sau:

Ba năm giặt váy phải ngày trời mưa

Ý nói vận đen đủi, gặp xui

Ba năm được vua vời lại đúng kỳ kinh nguyệt.

Ý nói số phận hẩm hiu, không may.

Ở hai câu trên, để diễn đạt sự đủ của một thời gian dài thì dùng số 3. (cho nên dùng là 3 năm chứ không phải là 4 năm hay 7 năm...)

Ở góa ba đông, lấy chồng hay ngủ

Ở góa đã nếm đủ cái sự lạnh lẽo, cô đơn, đến khi lấy được chồng tưởng được "ấm áp" hơn thì lại gặp ông chồng hay ngủ.

Trong câu này dùng số 3 để nói sự đủ, nói mùa Đông để diễn đạt tính chất lạnh lẽo, thèm khát hơi ấm của mùa đông. (3 cái lạnh lẽo)

Làm đĩ ba đông lấy chồng cũng đẹp

Làm đĩ mà lạnh nhạt, không vương vấn tình cảm với ai, không nồng ấm với ai thì lấy chồng cũng đẹp.

Trong câu này dùng số 3 để nói sự đủ, mùa Đông để nói tính chất lạnh nhạt về tình cảm. (3 cái lạnh nhạt)

Những là thương gió nhớ mây,

Một ngày cách bạn cũng tày ba đông.

Thương nhớ nhau, một ngày phải xa cách, không đến được với nhau thì cũng như sự cách trở của mùa Đông phải chịu đựng sự lạnh lẽo, thiếu vắng tình cảm. (3 cái cách trở, thiếu vắng)

Như vậy, trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam cũng dùng "ba đông" là cách diễn đạt số ước lệ và tính chất ước lệ của mùa Đông để giải thích nội dung cần diễn đạt. Đó là cách dùng "ba đông" không với nội dung là thời gian là trải qua ba mùa Đông hay ba năm. Trong ca dao Việt Nam còn nhiều những bài sử dụng cách nói số và mùa ước lệ như sau:

Trăm năm tính cuộc vuông tròn

Đá vàng trót hẹn, dạ càng đinh ninh.

- Chốn hữu tình đâu hơn chỗ cũ?

Gió thuận hòa văn vũ non sông

Nhớ lời nguyện ước ba đông

Đêm khuya chẳng ngủ, ngày không nói cười.

Nói lời phải giữ lấy lời

Tạc vàng bia đá để đời cho nhau.

Hay:

Ai về nhắn nhủ cô hay

Có thương anh, thì đợi cho đầy ba đông

Hay là cô vội lấy chồng

Mặc ý tùy lòng anh chẳng dám ngăn

Trở lại với Truyện Kiều, khi Kim Trọng nhận được tin xấu từ gia đình nên vội lén đến gặp Kiều và dặn dò cặn kẽ (535-546):

Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,

Băng mình đến trước đài trang tự tình.

Gót đầu mọi nỗi đinh ninh,

Nỗi nhà tang tóc, nỗi mình xa xôi:

-“Sự đâu chưa kịp đôi hồi!

“Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ!

“Trăng thề còn đó trơ trơ,

“Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.

Ngoài nghìn dặm chốc ba đông,

“Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy.

“Gìn vàng giữ ngọc cho hay,

“Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời!”

Lời thề dưới trăng còn đó, anh không dám quên mặc dù xa xôi nghìn dặm, lạnh lẽo, thiếu thốn tình cảm, mặc dù đến lúc xong việc cũng còn lâu. Em hãy giữ mình!

Như vậy, câu:

Ngoài nghìn dặm chốc (cách) ba đông

Nguyễn Du sử dụng "ba đông" cũng giống như nội dung trong tục ngữ, thành ngữ, ca dao mà thôi. Sử dụng với ý nghĩa là lạnh lẽo, cách trở, thiếu thốn tình cảm (tính ước lệ của mùa Đông) còn số 3 diễn đạt cho sự đủ của tính chất lạnh lẽo, cách trở, thiếu thốn tình cảm đó.

Do vậy, ba đông không phải là nội dung thời gian - 3 mùa Đông hay 3 năm nên câu này dùng từ cách (xa cách, cách trở) hợp lý hơn chốc - chỉ thời gian:

Ngoài nghìn dặm cách ba đông

B. "BA THU DỌN LẠI MỘT NGÀY DÀI GHÊ" (248)

Khi Kim Trọng gặp hai chị em Kiều ở tiết Thanh minh trở về, nhớ Kiều khôn nguôi (245-246)

Chàng Kim từ lại thư song,

Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.

Cái nỗi nhớ ấy, nỗi niềm tương tư ấy được Nguyễn Du tả như sau (247-248):

Sầu  đong càng lắc càng đầy,

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.

Bản Qn4: "Câu này lấy trong Kinh Thi mà tứ văn nồng đậm hơn, đem ba thu mà dồn lại trong một ngày, cho nên thấy là dài ghê". Đào Duy Anh: "Chữ Hán là tam thu, tức ba mùa thu, ba năm".

Nguyên câu trong Kinh Thi, phần Vương Phong, bài "Thái cát": "Bỉ thái cát hề,/ Nhất nhật bất kiến/ Như tam nguyệt hề./ Bỉ thái tiêu hề,/Nhất nhật bất kiến,/ Như tam thu hề./ Bỉ thái ngải hề,/ Nhất nhật bất kiến,/ Như tam tuế hề."

Bài thơ này tạm được dịch nghĩa như sau:

Cô gái hái dây sắn ơi

Một ngày không gặp

Như ba tuần trăng

Cô gái hái lá tiêu ơi

Một ngày không gặp

Như ba thu.

Cô gái hái lá ngải ơi

Một ngày không gặp

Như ba năm trời.

Nếu phân tích góc độ biểu đạt con số, chúng ta sẽ thấy cấu trúc của bài thơ này như sau: về đại lượng thời gian, mức độ tăng tiến tuần trăng (tháng) - mùa (Thu) - năm. Tất cả đại lượng thời gian trên đều được dùng số 3 để biểu đạt sự đủ của tính chất ước lệ mà đại lượng thời gian biểu đạt. Tính chất biểu đạt của đại lượng thời gian như sau:

Tuần trăng - trăng (một tháng có một lần trăng Rằm): gợi sự lãng mạn, tơ tưởng, bâng khuâng. Cũng là thời gian để khởi điểm một cảm xúc.

Điển hình trong thơ ca xưa và trong Truyện Kiều để tả về tình cảm lứa đôi không thể thiếu trăng, cảnh trăng, ánh trăng. Kiều và Kim Trọng thề lời tình yêu cũng dưới trăng. Kim Trọng thuê trọ bên cạnh nhà Kiều được Nguyễn Du tả là chưa đến một tuần trăng để gợi sự tơ tưởng đến Kiều của Kim Trọng, sau đó Kim Trọng nói với Kiều là "tháng tròn".

Mùa thu: Sầu, buồn, nhớ nhung, tương tư.

(Tại sao tác giả không dùng mùa Đông, mùa Xuân. Vì cần biểu đạt đặc điểm ước lệ gì của mùa Thu?. Nếu ta thay mùa đông hay mùa xuân hay chỉ 3 tháng chung chung liệu bài thơ còn giá trị không?)

Năm: thời gian dài, lâu (so với ngày, tháng, mùa) để đủ khẳng định một tình cảm.

Như vậy, thông qua tính chất ước lệ của các đại lượng thời gian được khẳng định sự đủ là số 3, ta thấy tâm trạng của tác giả đã chuyển hóa từ tình cảm lãng mạn, tơ tưởng, bâng khuâng phát triển lên thành tương tư, sầu, khổ và nỗi niềm đó day dứt mãi không thôi theo thời gian.

Nếu chỉ hiểu là nỗi nhớ như trải qua 3 tháng, 9 tháng, 3 năm thì nỗi nhớ đó vẫn chỉ là nỗi nhớ không màu, không mùi, không vị, không sầu khổ, thì có đến 100 năm cũng vẫn vậy mà thôi. Mặt khác, nếu ta thay mùa Thu bằng mùa Đông, hay mùa Xuân thì chắc hẳn ta lại minh chứng sự cô đơn, cách trở hay công ơn sinh thành cha mẹ hay sao?

Cho nên ta có thể hiểu câu thơ:

Sầu  đong càng lắc càng đầy,

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.

Là số 3 diễn đạt sự đủ của tính chất ước lệ của mùa Thu, đó là cái sầu đã nói trên, cái sầu của mùa Thu, của mùa yêu đương, tương tư, sầu, khổ...Và vì sầu, buồn nên ngày dài lê thê là vậy.

Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn có bài hát "Nhìn những mùa Thu đi" nói về cái sầu Thu và nghe cái sầu Thu:

Nhìn những mùa Thu đi

Em nghe sầu lên trong nắng

Và lá rụng ngoài song

Nghe tên mình vào quên lãng

Nghe tháng ngày chết trong Thu vàng

Nhìn những lần Thu đi

Tay trơn buồn ôm nuối tiếc

Nghe gió lạnh về đêm

Hai mươi sầu dâng mắt biếc

Thương cho người rồi lạnh lùng riêng

...

C. "LIỆU ĐEM TẤC CỎ QUYẾT ĐỀN BA XUÂN" (620)

Câu này, Nguyễn Du viết trong đoạn Thúy Kiều quyết định bán mình để cứu cha trong cơn gia biến. Và đây là 4 câu Nguyễn Du bình phẩm về hành động của Thúy Kiều (617-620):

Đau lòng tử biệt sinh ly,

Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên?

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.

Cái quy luật muôn đời tử biệt, sinh ly thì đành là vậy, nhưng trong trường hợp này thì thật đau lòng. Cái "thân hạt mưa" vốn đã được khắc họa sâu đậm trong ca dao tục ngữ cũng là đôi chút làm điểm tựa an ủi người con gái Thúy Kiều:

Thân em như hạt mưa rào

Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa

Thân em như như hạt mưa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

Cái thân hạt mưa quyết đền ơn sinh thành của cha mẹ cũng giống như tấc cỏ quyết đền ba xuân vậy. Mà Đông cũng như Tây, xưa cũng như nay, những người con hiếu không ai là không nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.

Phổ biến các chú giải Truyện Kiều đều ghi chú câu "tấc cỏ quyết đền ba xuân" là Nguyễn Du lấy tứ thơ từ bài thơ: "Du tử ngâm" của Mạnh Giao.

Tuy vậy, sự dùng tứ thơ này cũng khác nhau. Vì vậy, cũng cần điểm qua sự khác nhau này.

Mạnh Giao là nhà thơ Đường thuộc trường phái khổ ngâm. Với chất thơ hàm xúc, ông là nhà thơ tài hoa trong dòng thơ ngũ ngôn và tuyệt cú. Bài "Du tử ngâm" là bài đặc sắc nhất của ông. Ông nghe lời mẹ khuyên thử thi tiến sĩ lần nữa (lần thứ ba). Mẹ ông đã đúng, ông đã thi đỗ lúc 46 tuổi. Mãi đến năm 50 tuổi, ông mới được bổ đi nhậm một chức quan nhỏ là huyện úy Lật Dương, tình Giang Tô. Ngày nhậm chức, khi suy nghĩ về việc rước mẹ hiền lên và thương nhớ mẹ nên bài thơ này được ra đời.

遊子吟

慈母手中線, 遊子身上衣;

臨行密密縫, 意恐遲遲歸。

誰言寸草心, 報得三春輝?

Du tử ngâm

Từ mẫu thủ trung tuyến

Du tử thân thượng y

Lâm hành mật mật phùng

Ý khủng trì trì quy

Thùy ngôn thốn thảo tâm

Báo đắc tam xuân huy.

Dịch Nghĩa:

Sợi chỉ trong tay mẹ hiền nay đang ở trên áo người đi xa. Mẹ khâu kỹ càng cho con lên đường, ý sợ con chậm trễ trở về. Ai dám nói rằng tấm lòng của một tấc cỏ lại có thể báo đáp được ánh nắng của ba xuân?

Bản dịch của Khương Hữu Dụng:

Khúc ngâm của người đi xa

Sợi chỉ trong tay mẹ

Tấm áo trên mình con

Kịp đi khâu nhặt mũi

Sợ về còn chậm chân

Ai bảo lòng tấc cỏ

Báo được ánh ba xuân?

Theo: http://www.hoasontrang

Trong câu "Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân." chúng ta lưu ý cách dùng số của người xưa như đã phân tích các mẫu câu trong các mục trên. Ba xuân - số 3 đại diện cho sự đủ của tính chất ước lệ của mùa Xuân mà tác giả muốn chuyển tải, diễn đạt. Ở trong câu này, ai cũng hiểu tính chất ước lệ muốn diễn đạt của Nguyễn Du là công sinh thành của cha mẹ khi dùng từ "Xuân". Như vậy, 3 xuân, không phải là 3 tháng mùa Xuân, hay 3 năm cũng giống như trường hợp Nguyễn Du dùng ba đông, ba thu là không diễn đạt về thời gian, mùa màng. Điều đó cho thấy sự thống nhất trong cách diễn đạt số, cách nói số của người xưa, cụ thể trong Truyện Kiều.

Nhiều bài viết, nghiên cứu khi bình về câu thơ này thường nói tắt rằng: điển (điển tích) ba xuân trong Truyện Kiều là hoàn toàn không chính xác vì ba xuân không phải là điển tích, điển cố mà chỉ là cách dùng số 3 ước lệ mà trong văn thơ xưa ở đâu chúng ta cũng bắt gặp...

Thêm nữa, sự khác nhau trong cách dùng tứ thơ của Nguyễn Du và Mạnh Giao là ở chỗ Nguyễn Du dùng tấc cỏ - ba xuân để nói chung về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Còn Mạnh Giao dùng tấc cỏ - ánh ba xuân (ánh sáng mùa Xuân) để nhấn mạnh ngoài công sinh thành dưỡng dục thì chúng ta cho dù đã trưởng thành, thành đạt thì cha mẹ vẫn là bậc soi đường chỉ lối cho chúng ta trong suốt cuộc đời. Đó chính là cái tâm sự của Mạnh Giao về người mẹ đã khuyên ông đi thi vậy.

Và đương nhiên, giữa Mạnh Giao và Nguyễn Du không cao thấp, hơn kém nhau trong việc sử dụng tứ thơ này mà chỉ đơn giản là Nguyễn Du dùng ngôn từ chính xác, đúng nội dung hoàn cảnh gia đình Kiều. Nên ông không dùng ánh ba xuân.

D. "GIẤM CHUA LẠI TỘI BẰNG BA LỬA NỒNG" (1352).

Về ý nghĩa dùng số 3 trong câu này cũng giống như chúng tôi phân tích trong các mẫu câu trên, số 3 đại diện cho sự đủ tính chất của lửa. Lửa mà chỉ 1 nồng, 2 nồng thì chưa được gọi là lửa nồng (vì trong tổng số 3, vẫn còn 1 yếu tố có thể làm tắt lửa). Vì vậy, 3 cái nồng mới được gọi là lửa nồng.

Tuy nhiên, việc Nguyễn Du dùng giấm chua để đối lập với lửa nồng hay để chỉ mối tương quan giấm chua - lửa nồng lại gây tranh cãi, khó hiểu từ trước tới nay, từ phía các nhà nghiên cứu chữ nghĩa, điển tích Truyện Kiều đến các nhà bình luận văn chương nói chung. Mà nguồn gốc của sự khó hiểu này lại tập trung chủ yếu ở từ "lửa nồng" vì lửa, đơn giản chỉ là lửa, lửa to, lửa nhỏ, lửa cháy âm ỷ chứ "nồng" nghĩa là sao? Mặt khác, trong dân gian ít dùng từ "lửa nồng", nên vì khó giải thích các nhà chữ nghĩa đi tìm chữ "hỏa khanh" trong Phật giáo để giải thích. Từ đó lại càng làm vấn đề trở nên phức tạp hơn.

Huỳnh Tịnh Của giải thích: làm cho người ta ghe tương (tuông) lại càng nặng tội hơn làm đĩ. Trong bản Qn4: "Giấm chua, người ta thường ví với sự ghen. Lửa nồng thời là nói cái cảnh khổ ở lầu xanh. Song cũng chỉ biết vậy thôi, còn gốc tích của chữ này như sao, nay chưa khảo được rõ. Bản Qn6: " Chưa rõ điển tích trong câu này. Đại thể câu này có nghĩa là: sự khổ sở vì bị vợ cả đánh ghen, hành hạ còn khổ hơn là nỗi khổ ở lầu xanh".

Từ những ghi chú tạm thời, một sự gợi ý còn không chắc chắn về nguồn gốc của các tác giả chú thích Truyện Kiều xưa, nên nhiều người sau này đi tìm nguồn gốc của chữ "Lửa nồng" và cho rằng:

"Lửa nồng" là lửa đương cháy, dịch ý chữ "hỏa khanh" tức hang lửa. Trong "Diệu pháp liên hoa kinh" của nhà Phật có câu: "Giả sử hưng hại ý suy lạc đại hỏa khanh" (nếu cái ý làm hại người nổi dậy thì phải xô xuống hang lửa lớn). Về sau, để nói cái cảnh khốn khổ cùng cực, người ta thường dùng hai chữ "hỏa khanh", cả cái cảnh trụy lạc của phụ nữ ở lầu xanh cũng gọi thế. Do đó, "lửa nồng" ở đây chỉ cảnh khổ ở lầu xanh.

Trích trong Điển tích: Trước hàm Sư Tử gởi người

 Đằng la - Theo Ðiển tích Truyện Kiều- NXB Ðồng Tháp

Để giải thích câu:

Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng

Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu:

D.1. Thế nào là lửa nồng:

Các chú thích, giải nghĩa trên đây làm cho chúng ta tưởng rằng "lửa nồng" là Nguyễn Du phải dịch từ chữ "hỏa khanh". Thực tế thì chúng chẳng liên quan gì đến nhau. Cái lửa "hỏa khanh" mà phật giáo nói đến là cái nạn (tam tai) con người dễ bị mắc phải đó là: Nước, Lửa, Gió (Triết học phương Đông chia không khí gồm 3 yếu tố: nước, lửa, gió) và khi đó cần phải cầu Phật mới thoát nạn.

Ba nạn đó trong kinh như sau:

Năng miễn tam nạn

(thoát được ba nạn)

Chính kinh:

Giả sử hưng hại ý,

Thôi lạc đại hỏa khanh,

Niệm bỉ Quán Âm lực,

Hỏa khanh biến thành trì.

Hoặc phiêu lưu cự hải,

Long, ngư, chư quỷ nạn,

Niệm bỉ Quán Âm lực,

Ba lãng bất năng một.

假使興害意。

推落大火炕。     

念彼觀音力。

火炕變成池。

或漂流巨海。

龍魚諸鬼難。     

念彼觀音力。

波浪不能沒。

(Nếu kẻ nổi ý hại,/ Xô rớt hầm lửa lớn,/ Nhờ sức niệm Quán Âm,/ Hầm lửa biến thành ao. /Hoặc lênh đênh biển cả, /Mắc nạn quỷ, cá, rồng, /Nhờ sức niệm Quán Âm, /Sóng mòi chẳng chìm được). Từ đây trở đi, trùng tụng những sự Quán Âm cứu nạn, cứu tai. Hai bài kệ tụng này ý nói có thể tránh được tam tai: hỏa tai, thủy tai, phong tai.1

1Trích trong: QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. PHỔ MÔN PHẨM GIẢNG KÝ (phần 4) Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Diễn Bồi. Pháp sư Thích Khoan Nghiêm ghi. Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa (theo ấn bản của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội, tháng 04, năm 2004)

Chúng tôi đồng ý rằng có thể người xưa ví von hay so sánh việc bị rơi vào lầu xanh hay sự khổ cực trong lầu xanh chẳng khác nào bị rơi vào hang lửa (hầm lửa) một trong "tam tai" mà Phật giáo nói đến. Nhưng để nói ngược lại hang lửa hay "hỏa khanh" để chỉ cảnh khổ trong lầu xanh là không thể, là thiếu khoa học. Thêm nữa, từ đó dùng phép bắc cầu (tam đoạn luận) để chứng minh lửa nồng = hỏa khanh = nỗi khổ lầu xanh thì phi lý hết sức.

Còn từ "lửa nồng" chúng ta cũng chẳng phải tìm đâu xa mà ngay trong Truyện Kiều, Nguyễn Du dùng:

Lửa tâm càng dập càng nồng (1537)

Đối với Hoạn Thư khi hay tin Thúc Sinh lấy Kiều

Nửa năm hương lửa đang nồng (2213)

Đối với Từ Hải sống với Kiều.

Như vậy, Nguyễn Du dùng lửa để nói cái lửa tình cảm con người. Cái lửa lòng, lửa tâm của Hoạn Thư càng dập thì càng nồng, càng bùng lên, còn cái lửa của vợ chồng Thúy Kiều và Từ Hải những ngày đầu nóng cháy, những ngày đầu bùng lên, nồng lên. Trong việc dùng lửa để chỉ về tình cảm thì người ta chỉ dùng trong trường hợp nam nữ, lứa đôi, vợ chồng chứ không ai ví tình cảm anh chị em, hay bố mẹ với con cái là như lửa cả vì điều này theo nguyên lý âm, dương cọ sát mới sinh lửa. Ngày nay, ta thường nói "bốn mắt nhìn nhau tóe lửa tình" hay trong ca dao có câu:

Tưởng rằng đá nát thì thôi,.

Ai ngờ đá nát nung vôi lại nồng

Đó cũng là cái lửa tình cảm nam nữ tưởng chừng đã nguội lạnh rồi, đến khi hàn gắn hoặc nung mới thì lại nồng lên, lại bùng lên.

Cho nên, lửa (nồng) là cái lửa bản thể của tình yêu nam nữ từ thuở khai sinh lập địa mà A-đam và E-va đã mang theo đến giờ.

Do đó, ở chốn lầu xanh thì "lửa nồng" hay lửa tình giữa khách làng chơi với kỹ nữ thì là chuyện thường tình. Và có thể dân gian xưa nói lửa nồng ở chốn lầu xanh là loại lửa nồng, bùng lên trong chốc lát rồi thôi với hàm ý giễu cợt là loại lửa không bền lâu.

Trở lại với câu:

Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng

Nếu theo các chú giải trên, lửa nồng để nói cảnh khổ ở lầu xanh thì cả Hoạn Thư, Từ Hải cũng trong cái cảnh lầu xanh hay sao? Mặt khác, nếu nói như Huỳnh Tịnh Của giải thích: làm cho người ta ghe tương (tuông) lại càng nặng tội hơn làm đĩ. Hoặc bản Qn6: "Sự khổ sở vì bị vợ cả đánh ghen, hành hạ còn khổ hơn là nỗi khổ ở lầu xanh" thì rất mâu thuẫn với tâm lý nhân vật, tâm lý của Thúy Kiều.

Việc Thúc Sinh có vợ là Thúy Kiều đã biết, việc Thúc Sinh lấy Kiều là việc sẽ được xã hội thừa nhận, việc bà cả ghen tuông (giấm chua) là tất yếu sẽ xảy ra không nhiều thì ít, chỉ còn trông chờ vào cách giải quyết của Thúc Sinh trong tương lai để được thuận buồm xuôi gió.

Rõ ràng, Kiều đang muốn lấy Thúc Sinh mà lại có thể nói hàm ý về sống với anh để vợ anh ghen thì tội nặng hơn làm đĩ, hay vợ anh mà ghen thì khổ hơn làm đĩ thì chẳng khác nào chửi vào mặt Thúc Sinh rằng với gia cảnh nhà anh thì tôi ở lầu xanh sướng hơn. Đó là ngôn ngữ bất nhã (dù là hàm ý) của một cô gái ở lầu xanh chứ không thể là một cô gái Thúy Kiều được ăn học.

Thêm nữa, cách giải thích như chú giải trên bỏ qua ý nghĩa chữ "lại tội". Chữ "lại tội' ở đây là làm khó, làm tội làm tình chứ không phải tội lỗi, tội nghiệp. Giấm chua làm tội, làm khó lửa nồng, hay Giấm chua lại tội cho lửa nồng.

Thúy Kiều nói câu "Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng" là nói cái ghen của Hoạn Thư làm tội, làm khó cái lửa nồng của Thúc Sinh và Thúy Kiều.

D.2. Quan hệ giữa giấm chualửa nồng

Từ cách hiểu sai lệch về lửa nồng là chỉ cái nỗi khổ ở chốn lầu xanh nên nhiều người thấy giấm chua dùng trong câu này trở nên lạc lõng, không hề liên quan đến lửa - nỗi khổ lầu xanh. Từ đó, đi tìm hướng giải thích khác đó là tìm những từ liên quan đến lửa và âm "giấm". Rồi qua khảo sát thực tế đời sống việc dùng lửa trong dân gian có việc rấm lửa hay giấm lửa (giữ mồi lửa) như Vũ Ngọc Khánh chú giải:

"Một số cố lão ở Hà Tĩnh thuộc hai chữ đầu câu này là rấm vùi hay nhúng vùi. Ý nói: lửa bếp vùi âm ỉ cháy (chỉ thói ghen tuông) còn khó chịu hơn cả lửa nồng".

Cách tìm hiểu phong tục, thực tế đời sống để giải thích Truyện Kiều là việc làm rất khoa học vì không phải văn chương của bậc đại thi hào Nguyễn Du lúc nào cũng phải dựa vào từng câu, từng chữ hay điển tích Trung Hoa để viết.

Tuy nhiên, việc phát hiện ra từ rấm vùi đồng âm với giấm lại không thể giải thích cái mồi lửa vùi, âm ỉ cháy làm sao có thể làm tội, làm khó lửa nồng. Để nói mồi lửa cháy âm ỉ như thói ghen tuông thì hoàn toàn là cách hiểu thiếu chính xác vì không thể hiện được tính đặc trưng của việc ghen tuông. Chỉ có thể nói lửa cháy âm ỉ trong lòng như sự bực bội, bực tức không giải tỏa được nên nó âm ỉ cũng giống như Nguyễn Du đã dùng: Lửa tâm càng dập càng nồng.

Có một thực tế phổ biến là các nhà chú thích văn bản Truyện Kiều đa phần là đàn ông nên mối quan hệ, tương quan giữa giấm chua và lửa khó được phát hiện.

Xét trong quan hệ yêu đương, vợ chồng lửa tình cảm mà nồng là nóng lên, là bùng phát to lên. Đương nhiên, trong quan hệ tình cảm, lửa nồng rồi phải lắng xuống, phải dịu lại như quy luật vốn có của đời sống tâm lý tình cảm. Hình ảnh bùng lên của lửa nồng cũng giống như ngọn lửa ngoài tự nhiên khi bùng to lên, khi dịu lại, khi âm ỉ...

Tại sao, đàn ông lại khó phát hiện mối tương quan của giấmlửa?. Vì trong đời sống xã hội Việt Nam xưa, người đàn ông không tham gia việc bếp núc. Việc ở bếp, đun nấu là thuộc về phụ nữ, nên người phụ nữ hiểu rõ nhất công dụng của giấm chua. Kinh nghiệm làm bếp, đun nấu của người xưa là:

Khi đun nấu, gặp lửa bùng to lên (có thể do mỡ bắn ra hoặc củi lửa có dầu bỗng dưng cháy nỏ) thì người ta thường dùng giấm để dập lửa to, lửa bùng lên gây cháy nhà. Tại sao phải dùng giấm? Vì nếu dùng nước lã thì bếp sẽ tắt, sẽ bị mất lửa, để mồi lại lửa thì "Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt" nên phải dùng giấm dập được lửa bùng lên mà không bao giờ tắt bếp, mất lửa. Đó là kinh nghiệm ngàn đời của việc bếp núc xưa.

(Các bạn có thể tìm hiểu công dụng của giấm qua mạng intrenet, hay các sách nấu ăn đến nay vẫn lưu truyền kinh nghiệm dập lửa và giữ lửa này của giấm.)

Như vậy, Nguyễn Du viết câu thơ:

Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng

là hoàn toàn xuất phát từ kinh nghiệm phổ biến trong dân gian về việc bếp núc, việc của đàn bà như Hoạn Thư, Thúy Kiều. Vì thế, đây là câu từ miệng của Thúy Kiều (một người phụ nữ) nói ra.

Do đó, hiểu câu thơ này là việc ghen tuông (giấm chua) của Hoạn Thư làm tội (khó) cho lửa nồng (nhất thời) của Thúc Sinh với Thúy Kiều. Câu này đồng nghĩa với việc Kiều dò xét về lửa tình cảm của Thúc Sinh với Thúy Kiều có bền lâu hay không.

E. "CHỮ TÂM KIA MỚI BẰNG BA CHỮ TÀI" (3252)

Một trong số rất nhiều các bình luận về câu này trong Truyện Kiều là lời bình rất xác đáng của tác giả Nguyễn Hoàn như sau:

"Những người có “chữ tâm” đích thực trong đời này không phải là ít và hết thảy họ đều yêu mến, nâng niu câu Kiều nhân nghĩa lung linh này.

Nhưng những người nhân danh “chữ tâm” lại cũng không phải là ít và đôi khi “chữ tâm” nhân danh này bị đem đối lập với chữ tài. Và như thế chữ tài lại bị dè bỉu, bị đố kỵ. Và như thế hai chữ “tâm, tài” tương đố. Ngày xưa, khi viết Truyện Kiều để chứng minh cho thuyết “tài mệnh tương đố” (Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau), Nguyễn Du đã không ngờ đến cái tình cảnh “tâm, tài tương đố” này.

Thực ra, đại thi hào Nguyễn Du chỉ đem chữ tài đối lập với chữ mệnh chứ chưa hề đem chữ tài đối lập với chữ tâm bao giờ cả. Không đối lập hai chữ “tâm-tài” nhưng lại bảo: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, “rắc rối” chữ nghĩa là ở chỗ đó."

Trích trong bài: Để hiểu đúng câu Kiều về chữ “tâm” của Nguyễn Du.

 Tác giả - Nguyễn Hoàn. Nguồn: Văn hóa Nghệ An.

Chúng tôi rất thích nhận xét của tác giả Nguyễn Hoàn về câu này trong Truyện Kiều:

"Câu Kiều nhân nghĩa lung linh"

và tác giả nhận xét rất đúng rằng, Nguyễn Du "chưa hề đem chữ tài đối lập với chữ tâm bao giờ cả".

Vậy, hiểu thế nào về câu:

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

Như phân tích, các mẫu câu nói số, diễn đạt số của Nguyễn Du trong các mục trên, thì đây là mẫu câu dùng số để diễn đạt nội dung tương tự: 1, 2 chữ tài thì chưa được gọi là tài mà phải 3 chữ tài thì mới là chữ tài đầy đủ, chữ tài đúng nghĩa. Có thể hiểu 3 chữ tài để diễn đạt nội dung thực tài, hay cái tài thực.

Như vậy câu này chỉ đơn giản là:

Chữ tâm kia mới = chữ tài (thực tài).

Như vậy, Nguyễn Du chỉ ra mối quan hệ tương đương chứ không nói chữ tâm hơn và gấp bao nhiêu lần tài. Nói một cách khác, Nguyễn Du chỉ ra mối quan hệ của hai khái niệm tâm, tài. Mặc dù, tâm và tài là hai khái niệm có nội dung khác nhau, nhưng trong một ý nghĩa nào đó chữ tâm và chữ tài là bằng nhau, là như nhau. Do đó, đây là một mối quan hệ biện chứng, qua lại giữa hai khái niệm này. Vậy ý nghĩa nào mà tâmtài có thể bằng nhau, có thể là như nhau?

Trong khuôn khổ chương mục này, chúng tôi không bình luận, đi sâu vào khái niệm triết học, tư tưởng của nội dung chữ tâm và chữ tài, không đi sâu vào nội hàm, ngoại diên của hai khái niệm này. Chúng tôi chỉ xét trên diễn biến, sự kiện trong Truyện Kiều và thông qua hình tượng Thúy Kiều để chỉ ra mối tương quan tâm = tài.

Như chúng ta đã biết, sau khi báo ân, trả oán, Thúy Kiều đã bước lên ngôi vương "nghiêng nước nghiêng thành" đúng nghĩa với nội dung đầy đủ của thành ngữ đó như đã phân tích trong mục thành ngữ "Nghiêng nước nghiêng thành" ở phần đầu sách. Từ đó, Thúy Kiều đã bước sang giai đoạn mới của cuộc đời là tham mưu cùng Từ Hải đã trụ vững năm năm ở vùng biên thùy với ranh giới rạch đôi sơn hà, chuẩn bị lực lượng phát động chiến tranh tiến về Bắc kinh. Vì thế Hồ Tôn Hiến xuất hiện để chiêu an. Đây chính là thời điểm diễn ra cuộc tranh đấu nội tâm của Thúy Kiều.

Thúy Kiều đã trải qua tuổi xuân vô vàn nỗi cự khổ, nhục nhã rồi tận hưởng cuộc đời phong lưu, xa hoa bên Từ Hải...để rồi tất cả đều vô nghĩa trước mong muốn giản dị đời thường là đoàn tụ gia đình, gặp lại người thân.

Qua lời chiêu an của Hồ Tôn Hiến, Thúy Kiều đã nhận thức ra chính nghĩa quốc gia, nhận ra cái ơn đức của vua đã bao năm ổn định thiên hạ mà ai ai cũng hàm ơn và mong muốn giản dị như chính Thúy Kiều đang mong mái ấm gia đình yên ổn, đoàn tụ, xum họp. Từ đó, bài toán "Công, tư, vẹn cả hai bề" và đáp ứng được "Trên vì nước, dưới vì nhà, một là đắc hiếu, hai là đắc trung". Và bài toán này đáp ứng được cá nhân Kiều cũng như muôn dân.

Trong sự đấu tranh nội tâm này, cái tài của Thúy Kiều ảnh hưởng tới muôn dân (toàn xã hội) có hai tình huống sau:

- Nếu phát động chiến tranh tiến về Bắc Kinh mà Từ Hải và Thúy Kiều thắng thì cái tài được khẳng định, nhưng tâm không xuất hiện vì chỉ đáp ứng được Thúy Kiều. Còn muôn dân đau khổ. Cái tài của Thúy Kiều là cái tai (họa) cho muôn dân. Việc thay đổi một triều chính mới không phải là cách mạng từ lòng dân, không phải là dân mong muốn. Nếu thua, cái tài tai (họa) với chính Thúy Kiều và với muôn dân. Đương nhiên, tâm vẫn không xuất hiện.

Nếu giải binh, cho dù Từ Hải không chết, hay chết, hay cả Thúy Kiều cũng chết thì cái tài vẫn được khẳng định và tâm xuất hiện.

Như vậy, trong 3 tình huống của tài thì chỉ có một tình huống duy nhất tâm xuất hiện - đó là giải binh - đem thái bình cho muôn dân. Vì thế nói tâm = tài là ở tình huống này, là ở tính mục đích của tài - đáp ứng thái bình cho muôn dân.

Do đó, tâm, tài sẽ bằng nhau ở tính mục đích. Nếu tài mà có tâm thì tai (họa) không xuất hiện.

Qua sự phân tích trên, cái tài của hình tượng nhân vật Thúy Kiều đã phát triển từng bước theo thời gian từ ấu thơ tới trưởng thành, ảnh hưởng từng bước, từng cấp độ tới xã hội và toàn xã hội (muôn dân). Đó là sự phát triển biện chứng của cái tài.

Song song bên cạnh đó, cái tâm cũng phát triển từng bước từ thấp đến cao:

Tâm - hiếu: Gia đình

+ Là người con gái trong trắng, đoan chính, có ăn học, có lễ giáo với cha mẹ.

+ Bán mình chuộc cha, cứu gia đình.

(Bán mình đã động hiếu tâm đến trời)

Tâm - hạnh: Xã hội

Phẩm hạnh của Thúy Kiều được phát triển qua những năm tháng lưu lạc.

Bố Thúc Sinh đã phải thốt lên:

Thương vì hạnh, trọng vì tài

Tâm - nhân: Quốc gia, dân tộc

Thúy Kiều đã từ bỏ con đường danh vọng lớn, chọn giải pháp giải binh để cứu muôn dân khỏi chiến tranh - cứu người là nhân.

Tâm thành đã thấu đến trời

Bán mình là hiếu, cứu người là nhân.

Sự phát triển giữa tàitâm không chỉ đơn giản là sự riêng biệt, mà còn là một quan hệ đồng hành, quan hệ tương tác, biện chứng. Nếu không đủ tài lèo lái, khuyên dụ Từ Hải quy hàng, giải binh  thì dù Thúy Kiều có tâm - nhân, muốn cứu nhân dân khỏi cuộc chiến tranh thì cũng không có kết quả. Chiến tranh, đau thương vẫn xảy ra, cho nên: tâm không được thực thi - lực (tài) bất tòng tâm.

Vậy định giá thế nào về hành động của Thúy Kiều:

Quan điểm của Trời, Phật thông qua bà Tam Hợp đạo cô (2679):

Sư rằng: -“Song chẳng hề chi,

 “Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.

“Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,

“Mắc điều tình ái, khỏi điều tà tâm.

“Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,

“Bán mình đã động hiếu tâm đến trời.

“Hại một người, cứu muôn người,

“Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng.

“Thửa công đức ấy ai bằng,

“Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi.

“Khi nên trời cũng chiều người,

“Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau."

Quan điểm của đồng cốt...thông qua Đạm Tiên (2715-2724):

“Chị sao phận mỏng, đức dày?

“Kiếp xưa đã vậy, lòng này dễ ai.

“Tâm thành đã thấu đến trời,

“Bán mình là hiếu, cứu người là nhân.

“Một niềm vì nước vì dân,

“Âm công nhắc một đồng cân đã già.

“Đoạn trường sổ rút tên ra,

“Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau.

“Còn nhiều hưởng thụ về sau,

“Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào.”

Bởi vậy, Nguyễn Du đưa ra lời kết thúc truyện nhắc nhở người đời rằng: con người sinh ra vốn thiện, trong quá trình rèn, dưỡng và dụng tài đừng quên tu tâm, tích đức.

Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

(Xin xem tiếp Bài 11 "TRUYỆN KIỀU DƯỚI GÓC NHÌN CON SỐ & THÀNH NGỮ SỐ DÂN GIAN")

TRẦN GIA ANH – TRẦN ĐÌNH TUẤN
© Copyright 2012    http://vietnamsuhoc.com/    All right reserved.   E-mail:info@vietnamsuhoc.com    Designed by Ho Quang.