Bài 3
Tiếp theo Bài 2 - "TRUYỆN
KIỀU DƯỚI GÓC NHÌN CON SỐ & THÀNH NGỮ SỐ DÂN GIAN"
2. TRỜI VỚI DÂN TỘC VIỆT NAM
A. MỆNH TRỜI THEO
QUAN NIỆM DÂN GIAN VIỆT NAM
Việt Nam có một
nền văn hóa bản địa lâu đời mà tín ngưỡng về “Trời” đã ăn sâu vào đời sống nhân
dân, vào tâm hồn Việt.
Tin vào trời, nhờ
trời, cầu trời... ý niệm về trời hay tín ngưỡng về trời vốn tồn tại trong tiềm
thức người Việt trước khi có các tôn giáo khác du nhập vào nước ta. Ngay cả
Phật giáo khi đã phát triển mạnh ở Việt Nam vẫn phải dựa vào và chấp nhận ý
niệm về trời trong dân gian: Cầu Trời, khấn Phật.
Với người Việt xưa, trời là một
bậc quyền phép vô song ở trên cao, trời làm ra tất cả: trái đất, núi non, sông
biển, mưa nắng…; trời sinh ra tất cả: loài người, muôn vật, cỏ cây...
Trời có con mắt thấy tất cả,
biết hết mọi sự xảy ra ở thế gian. Trời là cha đẻ muôn loài, xét đến muôn việc,
thưởng phạt phân minh không trừ ai. Do đó, con người tin có đạo Trời, nhờ trời,
cho là trời sinh, trời dưỡng, và đến khi chết thì về chầu trời.
Giang sơn của Trời là từ mặt
đất lên đến trên cao, có chín tầng trời, và chỗ giao hòa với đất ấy là chân
trời. Trời vô hình vô thanh, nhưng người ta tin là ở đâu cũng có mặt của trời,
không một ai tránh khỏi lưới trời, mọi việc đều do trời định. Người ta tin
rằng, từng hành động của con người đều có trời chứng giám, can thiệp và không
ai thoát khỏi số trời định.
Khi gặp tai nạn
rủi ro dù nhỏ như đứt tay, vấp chân, té ngã, người ta kêu trời. Khi buồn khổ,
chán nản, thất bại, người ta cũng kêu trời. Khi lao động làm ăn người ta cầu
trời. Khi thành công, hạnh phúc, bình an, người ta nói “nhờ trời”. Khi hoạn nạn
người ta cầu trời cho tai qua nạn khỏi, khi thoát nạn thì nói “trời cứu” hoặc
gặp tai nạn nghiêm trọng thì nói "trời đánh"…
Hàng loạt các câu
ca dao, tục ngữ, thành ngữ đủ mọi sắc thái về Trời vẫn tồn tại cho đến ngày nay
như:
“Nước non là nước
non trời
Ai chia được nước
ai dời được non”.
“Núi kia ai đắp nên cao,
sông kia biển nọ ai đào mà sâu?”
“Trời sinh voi sinh cỏ”.
“Trời cho ai nấy hưởng”.
“Trời kêu ai nấy
dạ”.
“Sống nhờ ơn trời,
chết về chầu trời”.
“Không có trời, ai ở với ai”.
“Trời cho không ai
thấy, trời lấy không ai hay”.
“Duyên ba sinh
trời đã sẵn dành”.
“Trời nào có dong
kẻ gian, có oan người ngay”
“Trời nào có phụ
ai đâu, hay làm thì giầu, có chí thì nên”.
“Ở xởi lởi trời cởi ra cho, ở so đo trời co ro
lại.”
“Mưu sự tại nhân,
thành sự tại thiên”.
“Ở hiền thì lại
gặp lành, những người nhân đức trời dành phúc cho”.
“Ông Trời có con
mắt”.
“Lưới trời lồng
lộng, thưa mà không lọt”.
“Trời quả báo, ăn cháo gẫy răng, ăn cơm gẫy
đũa, xỉa răng gẫy chày”.
“Gét của nào, trời trao của ấy”.
“Thiên bất dung
gian”.
“Lạy trời mưa
xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun
bếp...”
“Lạy trời mưa
thuận gió đều, cho đồng lúa tốt, cho chiều lòng em”.
…
Tuy ông Trời là
vậy nhưng rất gần gũi trong tâm trí người Việt, người ta có thể giận, than vãn
và trách trời:
“Trời sao trời ở chẳng cân, người ăn không hết, kẻ
lần không ra!”
"Trời sao
trời ở chẳng công, người ba bốn vợ, người không vợ nào".
“Trời sinh ra kiếp ăn chơi, sao trời lại ghép vào
nơi không tiền?”
“Bắc thang lên hỏi ông Trời, những tiền cho gái có
đòi được chăng?”
“Nhất vợ nhì giời”
“Con Cóc là cậu ông Trời”
“Bắc thang lên hỏi ông trời, bắt ông nguyệt lão đánh mười cẳng tay”.
…
Và trong các
truyện cổ còn lưu lại thì ông trời cũng có vợ (bà trời) và người ta cũng gọi
ông Trời là Ngọc Hoàng khi văn hóa Trung Quốc và đạo Lão tràn vào Việt Nam.
B. TRỜI TRONG CỔ THI VIỆT NAM
Trời, những ý
niệm, quan niệm về trời ngoài thế giới hữu hình có thể nhận thấy còn là thế
giới vô hình là Đấng thiêng giữ công lệ trong vũ trụ.
Trong thi văn cổ
Việt nam, Đấng thiêng liêng này ngoài danh xưng "Trời" hay
"ông Trời" còn được gọi là: Tạo hóa, Hóa công, Con tạo, Hóa nhi,
Trời xanh, Ông xanh, Trời già, Hồng quân, Máy huyền vi ... hoặc chỉ trong một
chữ "Ai" nhằm biểu đạt mối liên quan giữa Đấng thiêng liêng với thân
phận con người. Mối quan hệ này được diễn tả rất phức tạp, từ sợ
Trời, cầu Trời, khấn Trời, xin Trời, kêu Trời, cậy Trời... đến than Trời, giận
Trời, trách Trời, và những lời thê thảm "oán Trời" thường gặp nhiều
nhất.
Các nhà thơ đều là
những vị thâm nho (đạo Khổng) vào thế kỷ XIV-XV còn chịu thêm ảnh hưởng
của Lão Trang, càng về sau càng thấy hiện rõ ảnh hưởng của Đạo Phật. Nhưng
những câu thơ khi viết về "Trời" hầu như ở ngoài vòng ảnh hưởng và
đôi khi vượt lên trên những quan điểm của Tam Giáo đều bắt nguồn từ sự tin
tưởng hồn nhiên tự tại trong tâm hồn Việt Nam.
Nguyễn Trãi (1380-1442):
Sang cùng khó
bởi chưng trời
Lăn lóc làm chi
cho nhọc hơi.
(Ngôn chí, bài 16)
Lồng lộng trời
tư chút đâu. (Trần tình, bài 4)
Trẻ dầu chơi con tạo hóa. (Tự thán, bài 3)
Trong tạo hóa có cơ mầu.
(Bảo kính cảnh
giới)
Được thua, phú quý đều Thiên mệnh
Chen chúc làm chi cho nhọc thân.
(Mạn thuật, bài 3)
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585):
Đồ thư một quyển nhà làm của
Phong nguyệt năm hồ khách nổi thuyền
Dù nhẫn chê khen, dù miệng thế
Cơ mầu tạo hóa mặc tự nhiên.
(Bạch Vân
Am Thi tập)
Lê Thánh Tôn (1442-1497):
Lòng vì thiên
hạ những sơ âu
Thay việc
trời dám dễ đâu.
(Bài Tự thuật)
Đoàn Thị Điểm (1705-1748): viết 411 câu thơ chữ nôm để
dịch bản chữ Hán "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần
Côn (1715?-1745).
Xanh kia thăm
thẳm từng trên
Vì ai gây dựng
cho nên nỗi này (c3-4)
Trách trời sao
để lỡ làng (c347)
Đã lòng trời
gìn giữ người trung (c374
)
Nguyễn Hữu Chỉnh (? - 1787):
Tay bé khôn bưng vừa miệng thế
Giãi lòng ngay
thảo cậy thiên tri.
(Ngôn ẩn Thi tập,
bài Than thân)
Phải cơ, mới
biết cơ trời nhiệm
Có rủi, bằng
dường lại có may.
(Ngôn ẩn Thi tập,
bài Tự biết mình)
Trần Tế Xương (Tú Xương) (1870-1907):
Bắc thang lên
hỏi ông trời nhẻ
Trêu ghẹo người
ta thế nữa thôi?
(Bài Than
thân)
Nguyễn Công Trứ (1778-1858):
Ngồi buồn mà
trách ông xanh
Khi vui muốn
khóc buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin
chớ làm người
Làm cây thông
đứng giữa trời mà reo.
(Bài Cây
thông)
Trót sinh
ra thì phải có chi chi
Chẳng lẽ tiêu
lưng ba vạn sáu
Đố kỵ sá chi
con tạo
Nợ tang bồng
quyết trả cho xong.
(Bài: Chí nam
nhi)
Hồ Xuân Hương (1772-1822):
Bày
đặt kìa ai khéo khéo phòm ...
Lâm tuyền quyến
cả phồn hoa lại
Rõ
khéo trời già đến dở dom.
(Bài: Động hương
tích)
Một đèo, một
đèo, lại một đèo
Khen
ai khéo tạc cảnh cheo leo
(Bài: Đèo Ba
Dội)
Khéo khéo bày
trò tạo hoá công
(Bài: Đá ông chồng
bà chồng)
Hóa công xây
đắp đã bao đời
Nọ cảnh Sài
Sơn có chợ trời .
(Bài: Chợ trời
Chùa thầy)
Khen thay con
tạo khéo khôn phàm
(Bài: Hang Thanh
Hóa)
Chu Mạnh Trinh (1862-1905):
Nhác trông lên,
ai khéo vẽ hình
Đá ngũ
sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một
hang lồng bóng nguyệt
Gập ghềnh mấy
lối uốn thang mây
Chừng giang sơn
còn đợi ai đây
Hay tạo hoá sẽ
ra tay sắp đặt?
(Bài: Phong cảnh
Hương Sơn)
Nguyễn Gia Thiều (1870-1907):
Trăn trở lớn nhất
trong Cung Oán Ngâm Khúc là những câu hỏi về nhân tình thế thái, về cơ Trời:
- Ngẫm nhân sự cớ chi ra thế?(c 45)
- Vắt tay nằm nghĩ cơ trời (c 47)
- Ai bày trò bãi bể nương dâu? (c 58)
- Ai mang nhân ảnh nhuốm mùi tà dương?(c 80)
Nguyễn Gia Thiều
thể hiện tư tưởng, triết lý cao siêu của Đạo giáo, của tư tưởng phương Đông qua
“thơ” thật thâm sâu, lời thơ tuyệt diệu nên nhiều câu như câu kinh mà người đời
sau thi nhau truyền tụng. Những câu thơ thể hiện tư tưởng của Khổng, Phật, Lão,
Trang như:
- Thảo nào khi mới chôn nhau
Đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra (c 55-56)
- Trắng răng đến thuở bạc đầu
Tử, sinh, kinh, cụ, làm đau mấy lần (c 59-60)
- Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê (c 67-68)
- Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh (c 72)
- Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì. (c 103-104)
Và để tìm con
đường giải thoát nên ông chọn giải pháp vừa tu Phật, vừa tu Tiên theo đạo Lão.
Tu Phật để dứt mối thất tình làm duyên với hoa đàm đuốc tuệ. Tu Tiên để thoát
trần, vui với thiên nhiên gió mát trăng thanh.
- Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật
Mối thất tình quyết dứt cho xong (c 109-110)
- Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên
Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời. (c 113-116)
Nhưng tu cũng chưa
hẳn là giải pháp nên Nguyễn Gia Thiều trong nhiều câu thơ sau hầu như cảm
thấy trên con người còn có một sức mạnh huyền bí chi phối kiếp
người mà con người tự mình không thể hiểu thấu đó là “Trời”
Trong "Cung
oán ngâm khúc" rất nhiều câu thơ nói đến chữ "trời ":
- Trộm nhớ thuở gây hình tạo hóa (c 9)
- Vắt tay nằm nghĩ cơ trời (c 47)
- Trẻ Tạo Hóa đành hanh quá ngán (c 73)
- Quyền phúc họa trời tranh mất cả (c 89)
- Ai ngờ trời chẳng cho làm (c 119)
- Hay thiên cung có điều gì
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi (c 123-124 )
- Đường tác hợp trời kia giong ruổi (c 129)
- Thử xem con tạo gieo mình nơi nao (c 132)
- Thôi đi đâu biết cơ trời (c 195)
- Hóa công sao khéo trêu ngươi (c 259)
- Ví sớm biết lòng Trời đeo đẳng (c 289)
- Tay tạo hóa cớ sao mà
độc (c 329)
Như vậy, đằng sau
những câu hỏi muốn vượt qua tầm tư tưởng của Phật, Nho, Lão, Trang ... thấy
ẩn hiện quan niệm về "Trời" của Nguyễn Gia Thiều, của thời đại Nguyễn
Gia Thiều.
"Trời"
trong Truyện Kiều được Nguyễn Du thể hiện là Đấng thiêng một cách hồn nhiên như
vốn trời là vậy, không có trăn trở, thắc mắc nào. Nguyễn Du không sử dụng chữ
“Tạo hóa”, chữ "Hóa
công" xuất hiện một lần; các chữ "Trời xanh" gợi hình ảnh
trời ở quá xa. "Trời già", "Trăng già" làm nghĩ
tới trời tuổi già lẩm cẩm, “Hóa công” gợi hình ảnh đẹp đẽ, trang trọng
quyền uy, những chữ "Hóa nhi", "Con tạo" cho cảm tưởng công
việc trời làm nhiều khi giống trò con nít, chữ Hồng quân cho cảm
tưởng trời cũng lả lơi như “Tao nhân mặc khách”…
Mối quan hệ giữa
Trời và Người được diễn tả rất phức tạp trong Truyện Kiều và đôi khi tưởng như
mâu thuẫn không còn nắm giữ công lệ.
Nắm quyền "phúc
họa đạo trời", Hóa công tỏ ra phũ phàng và độc địa. Cho ai hạnh phúc
người đó mới được hưởng. Bắt ai đau khổ kẻ đó phải chịu họa.
- Phũ phàng chi
bấy hoá công (c 85)
- Trăng già độc
địa làm sao (c 687-688)
Cầm dây chẳng
lựa, buộc vào tự nhiên!
- Rủi may âu
cũng sự trời (c 817)
- Người dù muốn
quyết trời nào đã cho (c
998)
- Hóa nhi thật
có nỡ lòng (c 1129-1130)
Làm chi giày
tía vò hồng lắm nau!
- Ngẫm thay
muôn sự tại trời (c
3241-3244)
Trời kia đã bắt
làm người có thân
Bắt phong trần
phải phong trần
Cho thanh cao
mới được phần thanh cao.
Trời lại có tính
ghen với phụ nữ có tài có sắc:
- Lạ gì bỉ sắc
tư phong (c 5-6)
Trời xanh quen
thói má hồng đánh ghen
- Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha (c2163)
- Nghĩ đời mà
ngán cho đời (c
2153-2154)
Tài tình chi
lắm cho trời đất ghen
- Hồng quân
với khách hồng quần (c
2157-58)
Đã xoay đến thế
còn vần chưa tha
Trời đôi khi chẳng
giữ công lệ. Người hiếu nghĩa trớ trêu thay lại gặp điều dữ. Người
ngay lành bị oan ức kêu trời không thấu:
- Mặt trông đau
đớn rụng rời (c 595-596)
- Oan này còn
một kêu trời, nhưng xa!
- Tiếng oan đã
muốn bật trời kêu lên!
(c 892)
- Mấy người
hiếu nghĩa xưa nay (c
2647-2648)
- Trời làm chi
đến lâu ngày càng thương
Trời khắc nghiệt
với người nên trong Truyện Kiều những câu thơ chán ngán buồn thảm đành
chịu buông trôi cuộc đời theo định mệnh:
Cũng liều nhắm
mắt đưa chân (c1115-1116)
Thử xem con tạo
xoay vần đến đâu
Biết thân chạy
chẳng khỏi trời (c
2163-2164)
Cũng liều mặt
phấn cho rồi ngày xanh.
Ngoài những câu
thơ oán trời, Truyện Kiều cũng có một số câu thơ đặt hy vọng vào trời,
khuyên rằng đừng "trách lẫn trời gần trời xa", mà hãy tin tưởng
vào sự công minh của trời:
Khi
nên trời cũng chiều người.(c 2689)
Tâm thành đã
thấu đến trời (c 2717)
Trời còn để có
hôm nay (c 3121-3122)
Tan sương đầu
ngõ vén mây giữa trời
(Xin xem tiếp Bài
4 "TRUYỆN
KIỀU DƯỚI GÓC NHÌN CON SỐ & THÀNH NGỮ SỐ DÂN GIAN")